Nguyễn Thị Phương Thảo
Châu Á - Thái Bình Dương là một khu vực gồm nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á, ĐNA, châu Đại Dương, Liên bang Nga, Canada, Chilê, Nga, Mêxicô, Pêru và Mỹ. Với vị trí địa lý đặc thù và những đặc trưng riêng về văn hóa, xã hội, CA-TBD trở thành khu vực có giá trị địa chiến lược đặc biệt quan trọng trên bản đồ an ninh, chính trị, kinh tế của thế giới. Vì vậy, sự chuyển hướng chính sách nước lớn về khu vực này là một xu hướng mang tính tất yếu, khách quan (Bộ Công An viện chiến lược công an, 2021). Bên cạnh đó, CA-TBD là khu vực có tầm quan trọng về chiến lược, chiếm khoảng 40% diện tích lãnh thổ thế giới, có nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có, đặc biệt là dầu mỏ chiếm tới hơn 65% trữ lượng của toàn cầu và có nhiều tuyến giao thông huyết mạch của thế giới đi qua (Đức Thắng, 2011). CA-TBD cũng là khu vực sở hữu nhiều cái "nhất": khu vực đông dân nhất (chiếm khoảng 1/2 dân số thế giới), có nền kinh tế phát triển năng động nhất, tập trung nhiều của cải nhất (tới 54% tổng GDP toàn cầu và 40% tổng thương mại quốc tế) và cũng tồn tại nhiều điểm nóng nhất của thế giới (vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, tranh chấp chủ quyền trên biển Đông và biển Hoa Đông…) (Đồng Xuân Thọ, 2016).
Thứ nhất, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triêu Tiên. Bán đảo Triều Tiên đại diện cho một trong những điểm nóng an ninh lớn nhất thế giới; vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên (North Korea) không chỉ đe dọa đến an ninh khu vực Đông Bắc Á mà còn có tác động toàn cầu. Từ khi Triều Tiên rút khỏi Hiệp ước Không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân (NPT) năm 1993, nước này đã liên tục phát triển chương trình hạt nhân và tên lửa, bất chấp sự phản đối dữ dội của cộng đồng quốc tế, được thể hiện qua các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (Ví dụ: 1718 năm 2006, 2270 năm 2016, 2397 năm 2017). Đây là một dấu hiệu cho thấy mức độ nghiêm trọng và kéo dài của cuộc khủng hoảng hạt nhân ở khu vực này. Mặt khác, sự tồn tại chương trình hạt nhân của Triều Tiên đã thúc đẩy các quốc gia láng giềng như Hàn Quốc và Nhật Bản thắt chặt quan hệ quân sự với Hoa Kỳ, qua các thỏa thuận như Hiệp ước Mỹ–Hàn và chính sách răn đe kéo dài. Vấn đề quan trọng khác là sự sụp đổ của các diễn đàn đa phương như Hội nghị 6 bên (Six-Party Talk) - vốn được coi là phương thức chính để giải quyết khủng hoảng hạt nhân, nhưng sau năm 2009 đã đi vào bế tắc vì thiếu lòng tin lẫn nhau. Việc khôi phục niềm tin và giao tiếp giữa các bên là điều kiện cần để có giải quyết bền vững vấn đề này.
Thứ hai, việc tranh chấp chủ quyền trên biển Đông và biển Hoa Đông. Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông và Biển Hoa Đông không chỉ là vấn đề lãnh thổ, mà còn là biểu tượng cho các mâu thuẫn chiến lược và lịch sử khu vực. Tại Biển Đông, đường lưỡi bò chín đoạn của Trung Quốc trùng lặp với quyền chủ quyền của ít nhất sáu quốc gia, tạo ra những tranh chấp chủ quyền và quyền kinh tế biển sâu sắc (Amry, 2015). Các đảo như Hoàng Sa, Trường Sa và Bãi Cỏ Mây trở thành điểm nóng không chỉ đối với yêu sách lãnh thổ mà còn là vị trí chiến lược và tài nguyên ngầm. Tình trạng xây dựng đảo nhân tạo cùng các cơ sở quân sự đã làm gia tăng căng thẳng, đe dọa quyền tự do hàng hải và quyền khai thác tài nguyên (CFR, 2025). Tương tự, trong Biển Hoa Đông, tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản xung quanh quần đảo Senkaku/Diaoyu đã tạo ra một chuỗi "các sự kiện nhỏ" tiềm ẩn khả năng leo thang thành đối đầu lớn. Theo phân tích của một bài nghiên cứu gần đây dựa trên lăng kính hiện thực, tranh chấp này phản ánh logic về cân bằng quyền lực: hai cường quốc khu vực không thể nhượng bộ chủ quyền vì sẽ làm suy giảm vị thế quốc gia. Những tranh chấp này khiến việc hình thành các cơ chế tổng thể như COC (Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông) hoặc gia tăng tương tác trong ASEM, ARF bị đình trệ.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang trở thành tâm điểm của những cạnh tranh đa tầng: từ tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, bất đối xứng kinh tế – thể chế, đến xung đột địa chiến lược giữa các cường quốc. Những thách thức này không chỉ đe dọa ổn định khu vực mà còn làm suy yếu triển vọng hợp tác đa phương. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng lòng tin chiến lược, thúc đẩy luật lệ quốc tế và cơ chế hợp tác linh hoạt là điều kiện tiên quyết để tránh xung đột và gìn giữ hòa bình bền vững cho toàn khu vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Amry, S. (2015). An analysis of the South China Sea dispute: Focusing on the assessment of the impact of possible solutions on the economies of the region [Thesis, CUNY City College]. CUNY Academic Works.
Bộ Công An viện chiến lược công an. (2021). ASEAN trong chiến lược nước lớn”. Chuyên đề 1: Châu Á – Thái Bình CFR (Council on Foreign Relations). (2025). Territorial disputes in the South China Sea Dương trong thế kỉ XXI. Xuất bản lần thứ hai. Nxb Chính trị Quốc gia sự thật.
Đức Thắng (2011). Chiến lược của một số nước ở Châu Á - Thái BìnhDương và vấn đề an ninh khu vực. Tạp chí quốc phòng toàn dân Online. http://tapchiqptd.vn/vi/anpham-tap-chi-in/chien-luoc-cua-mot-so-nuoc-o-chau-a-thai-binh-duongva-van-de-an-ninh-khu-vuc-tong-hop-tu-/2432.html, truy cập ngày 19/3/2018.
Đồng Xuân Thọ. (2016). Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Tạp chí Cộng sản Online. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=41547&print=true, truy cập ngày 12/03/2018