Lăng ngư Ông Tân Thái tọa lạc ở phường Mân Thái, quận Sơn Trà, được xây dựng vào khoảng năm 1740. Đây là nơi tiến hành tất cả các hoạt động thực hành tín ngưỡng liên quan tới tục thờ cá Ông của ngư dân làng Mân Thái và thờ phụng vong linh cô hồn, chư vị ngư dân tiền nhân cả đời bám biển, những người vong thân vì biển cả.
Lăng Ông có diện tích khoảng 300 m2, mặt bằng hình chữ Đinh (J), được bố cục thành 3 phần gồm: phía trước tiền hiên có phần mái bằng bê tông cốt thép kết hợp lầu chuông, trống; chính điện nằm ngang kiến trúc 3 gian; hậu tẩm nối liền phía sau hai tầng mái, có cổ lầu.
Phía trước Lăng có tượng Cá Ông bằng đá, mô tả Cá Ông đang vươn mình theo các đợt sóng lớn biển khơi.
Chính điện có kết cấu bộ khung bằng gỗ, gồm 04 ban thờ: ban thờ giữa, ban thờ hội đồng và 02 ban thờ tả, hữu hai bên. Ở ban thờ giữa có đặt (hòm) hộp hình chữ nhật chứa linh cốt cá Ông sau các lần cải táng. Hậu tẩm là nơi thờ Thần Nam Hải, bên tả thờ Tả Ban Liệt vị, bên hữu thờ Hữu Ban Liệt vị.
Hằng năm, cứ vào ngày 25-26.1 âm lịch, dân làng Tân Thái cùng nhau tổ chức Lễ hội cầu ngư. Khoảng 2 năm thì tổ chức đại lễ một lần, tùy theo kinh phí đóng góp của nhân dân. Lễ lớn được tổ chức dài ngày (4 – 5 ngày) với quy mô lớn, bao gồm phần lễ và phần hội. Còn lễ nhỏ chỉ tổ chức nghi lễ cúng tế.
Lăng Ông Tân Thái là nơi lưu giữ những nét đẹp về cách ứng xử của con người với thiên nhiên, với biển cả bao la và khát vọng chinh phục thiên nhiên, đồng thời còn là nơi lưu giữ những giá trị di sản văn hóa phi vật thể về Lễ hội Cầu Ngư.
Thờ cá Ông ở đây không chỉ được xem là sự tôn kính thần linh mà còn gắn liền với sự hưng thịnh của cả làng, cả vùng. “Ông” là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá Voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn khi lênh đênh trên biển cả.
Theo sắc phong thần của các vua nhà Nguyễn, cá Ông được tôn vinh là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần”. Sách Gia Định thành thông chí chép: “Những khi thuyền bè gặp sóng gió nguy hiểm, thường thấy thần - cá Ông dìu đỡ mạn thuyền bảo vệ người yên ổn. Hoặc thuyền bị chìm đắm, trong cơn sóng gió thần cũng đưa người vào bờ, sự cứu giúp ấy rất rõ. Chỉ nước Nam ta từ Linh Giang đến Hà Tiên mới có việc ấy và rất linh nghiệm, còn các biển khác thì không có”.
Khi cá Ông sống, ngư dân gọi là Ông Sanh, khi cá Ông chết thì gọi là Ông Lụy. Khi còn sống, cá Ông là ân nhân cứu sống sinh mạng của họ những khi bão to gió lớn trên biển, khi cá Ông lụy thì họ chịu tang như đối với người thân của mình. Lễ hội được diễn ra trong hai ngày vào trung tuần tháng 3 âm lịch. Ngày đầu thiết lễ tiên thường, ngày sau là lễ tế chính thức. Trong ngày lễ, bàn thờ được trang hoàng hết sức rực rỡ, trang nghiêm. Các nhà đều đặt bàn hương án bày đồ lễ cúng. Trên mỗi tàu thuyền đều chăng đèn kết hoa. Làng chọn ra một ban nghi lễ gồm các cụ cao niên, hiền đức, có uy tín với bạn chài và không bị mắc tang chế. Vị chánh bái dâng đồ tế lễ (không được dùng hải sản) và đọc văn tế nói lên lòng biết ơn của dân làng đối với công đức Cá Ông và cầu mong mùa đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn.
Lễ hội cầu ngư của cư dân các làng chài duyên hải miền Trung, ngoài ý nghĩa cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu…đem lại cuộc sống ngày càng no đủ hơn, còn thể hiện ý thức “Uống nước nhớ nguồn”, tưởng nhớ công đức của các vị tiến hiền, có công lập làng, dựng nghề.
Mọi người dân sinh sống ở đây dựa vào biển đều quan niệm rằng lễ Cầu Ngư như là một niềm tin, một sự động viên giúp họ vững vàng bám biển. Vì vậy, hầu hết ngư dân luôn muốn giữ gìn nét đẹp văn hóa này như một sự biết ơn, tin tưởng vào cá Ông, vào thần Nam Hải đã phù hộ bình an, thuận lợi cho những chuyến ra khơi của họ. Bởi vậy, lễ hội được truyền từ đời này sang đời khác, nét đẹp của một nền văn hóa vùng biển cần được bảo tồn.
KIM BÀI
(Sưu tầm và biên soạn)