Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người thể hiện khát vọng cao cả: giải phóng dân tộc, giai cấp để tiến tới giải phóng con người toàn diện. Người khẳng định phải trước hết giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, đế quốc; thoát khỏi đói nghèo, dốt nát, lạc hậu; đồng thời đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, phát huy phẩm chất tốt đẹp trong mỗi con người. Mục tiêu cuối cùng là xây dựng con người Việt Nam mới phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, đủ năng lực tự giải phóng và cống hiến cho xã hội độc lập, tự do, hạnh phúc.
Tư tưởng ấy đã bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, mở rộng từ giải phóng giai cấp đến giải phóng toàn diện: dân tộc, xã hội và cá nhân. Với giá trị triết học sâu sắc, nhân văn và tiến bộ, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho Đảng ta trong suốt quá trình cách mạng. Nhờ kiên định con đường ấy, Việt Nam đã giành độc lập, thống nhất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Từ năm 1990 đến 2023, chỉ số HDI của Việt Nam tăng từ 0,499 lên 0,766; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 2,93%; năm 2024, Việt Nam xếp thứ 44/133 quốc gia về đổi mới sáng tạo.
Trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người có ý nghĩa định hướng phát triển con người toàn diện:
Thứ nhất, phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo và kỹ năng số là yêu cầu hàng đầu. Giáo dục hiện đại không chỉ truyền đạt kiến thức, mà phải đổi mới theo hướng hình thành tư duy phản biện, kỹ năng công nghệ, khả năng sáng tạo. Việc tích hợp các lĩnh vực, như giáo dục khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn cần được triển khai đồng bộ với giáo dục giá trị văn hóa, lịch sử và bản sắc dân tộc.
Thứ hai, xây dựng nhân cách, đạo đức và ý thức công dân là nền tảng để con người trở thành chủ thể có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Trong đó, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải được xem là nhiệm vụ then chốt trong quá trình giáo dục và hoàn thiện con người.
Thứ ba, việc bảo đảm sức khỏe thể chất và tinh thần, nâng cao đời sống văn hóa là điều kiện không thể thiếu để phát triển con người toàn diện. Cần chú trọng đầu tư vào y tế, thể thao, chăm sóc sức khỏe tinh thần, đồng thời tạo lập môi trường sống lành mạnh, văn minh cho người dân, song song với đó, cần khuyến khích văn hóa đọc, văn hóa công sở, văn hóa ứng xử cộng đồng, bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống.
Để cụ thể hóa định hướng trên, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục cải cách căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng cá thể hóa, hội nhập quốc tế và thích ứng với chuyển đổi số. Trọng tâm là chuyển từ “học để thi” sang “học để làm, để sáng tạo, để sống nhân văn”, phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học. Đồng thời, cần nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, hiện đại hóa phương pháp giảng dạy, cập nhật chương trình theo chuẩn quốc tế, phù hợp với bối cảnh số hóa. Đây là định hướng lớn trong Nghị quyết số 29-NQ/TW (4-11-2013) của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, khẳng định giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, góp phần hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hai là, phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, khai thác tiềm năng sáng tạo của thanh niên trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, khuyến khích ứng dụng công nghệ mới, thân thiện với môi trường và mang giá trị cộng đồng. Đồng thời, thúc đẩy hình thành trung tâm đổi mới sáng tạo tại các trường đại học, khu công nghiệp, khu công nghệ cao nhằm thương mại hóa kết quả nghiên cứu, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nội dung này phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 68/NQ-TW (4-5-2025) của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân – coi khơi dậy tinh thần kinh doanh, tự cường dân tộc là động lực phát triển bền vững.
Ba là, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội theo hướng bao trùm, bền vững, thu hẹp chênh lệch vùng miền và bảo vệ nhóm yếu thế. Cần ưu tiên đầu tư phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; bảo đảm người dân được tiếp cận giáo dục, y tế, việc làm và dịch vụ xã hội cơ bản. Định hướng này được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 11-NQ/TW (10-2-2022) của Bộ Chính trị, yêu cầu phát triển toàn diện giáo dục, y tế, văn hóa, an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, góp phần thúc đẩy công bằng xã hội và phát triển đồng đều giữa các vùng.
Bốn là, đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trong các lĩnh vực, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận tri thức, dịch vụ công trực tuyến và tiện ích số. Cần phổ cập kỹ năng số, đặc biệt cho phụ nữ, nông dân, người cao tuổi – những nhóm dễ bị bỏ lại phía sau, qua đó thu hẹp khoảng cách số và bảo đảm bình đẳng trong cơ hội phát triển. Đây là định hướng được xác định trong Nghị quyết số 57-NQ/TW (22-12-2024) của Bộ Chính trị, coi chuyển đổi số, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là phương thức đột phá để phát triển nhanh, bền vững đất nước.
Năm là, phát triển văn hóa trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, động lực cho phát triển bền vững. Cần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đề cao giá trị nhân văn, đạo đức, lối sống tốt đẹp, đồng thời khơi dậy và phát huy sức mạnh nội sinh của văn hóa và con người Việt Nam. Đây là sự kế thừa tinh thần Nghị quyết số 33-NQ/TW (9-6-2014) của Trung ương 9 khóa XI, khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế – xã hội, hướng tới xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, giàu lòng yêu nước và trách nhiệm công dân.
Sáu là, coi nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm bảo đảm phát triển bền vững. Cần đầu tư mạnh cho y tế cơ sở, y tế dự phòng, phát triển thể thao học đường và phong trào rèn luyện thể chất. Song song, cần nâng cao nhận thức, ý thức tự chăm sóc sức khỏe trong cộng đồng. Chủ trương này được khẳng định trong Nghị quyết số 20-NQ/TW (25-10-2017) của Trung ương 6 khóa XII, chuyển hướng chăm sóc sức khỏe từ chữa bệnh sang phòng bệnh, nâng cao tầm vóc, thể lực và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam.
Phát triển con người toàn diện trong kỷ nguyên vươn mình không chỉ là khát vọng, mà còn là định hướng chiến lược để dân tộc ta tiến tới một xã hội văn minh, dân chủ, giàu mạnh và hạnh phúc. Đây là sự kết tinh giữa tư tưởng Hồ Chí Minh về “lấy con người làm gốc”, quan điểm phát triển bền vững của Đảng và tinh thần hội nhập năng động với xu thế tiến bộ của nhân loại. Mỗi cấp, mỗi ngành, địa phương, tổ chức và từng cá nhân cần chung sức, đồng lòng hiện thực hóa định hướng đó bằng những hành động thiết thực, cụ thể và đồng bộ.
Th.S Hoàng Thị Kim Oanh – Bộ môn Lý luận chính trị