star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

Chủ nghĩa Tân Hiện Thực và Chủ nghĩa Tân Tự Do Trong nghiên cứu Quan hệ quốc tế


Lý thuyết quan hệ quốc tế là một tập hợp các góc nhìn, cách tiếp cận, mô hình, cũng như những cách lý giải về các hiện tượng diễn ra trong nền chính trị thế giới. Có ba phạm trù chính khi bàn về Lý thuyết quan hệ quốc tế . Một là bản thể luận (ontology), hai là nhận thức luận (epistemology) và ba là phương pháp luận (methodology). Trong khi bản thể luận bàn về những gì trong thế giới khách quan mà con người có thể nhận thức được (thế giới quan), nhận thức luận tập trung vào phương thức mà con người nhận thức thế giới, hay nói cách khác là phương thức mà qua đó tri thức được tạo ra. Còn phương pháp luận đề cập đến các phương thức tiến hành thực nghiệm để kiểm chứng độ đúng sai của lý thuyết đó.

Từ những năm 1980 trở về sau, lý thuyết quan hệ quốc tế  chứng kiến thêm hai cuộc tranh luận lớn giữa chủ nghĩa tân hiện thực và chủ nghĩa tân tự do như là khởi đầu cho một cuộc tranh luận mới trong tương lai về sự ra đời của “quản trị toàn cầu” (global governance), nơi một mặt mang đầy đủ các yếu tố mà chủ nghĩa tân tự do miêu tả như thể chế, hợp tác, pháp trị, xây dựng chuẩn tắc, nhưng mặt khác cũng tiềm tàng sự tranh giành lợi ích, sức mạnh, được thua trong góc nhìn của trường phái hiện thực.

Vậy chủ nghĩa tân hiện thực và chủ nghĩa tân tự do là gì?

Chủ nghĩa tân hiện thực (neo-realism) là một nhánh của chủ nghĩa hiện thực. Chủ nghĩa hiện thực là trào lưu nghệ thuật lấy hiện thực xã hội và những vấn đề có thực của con người làm đối tượng sáng tác. Chủ nghĩa hiện thực hướng tới cung cấp cho công chúng nghệ thuật những bức tranh chân thực, sống động, quen thuộc về cuộc sống, về môi trường xã hội xung quanh. Chủ nghĩa hiện thực cũng là một lý thuyết ảnh hưởng lớn đến tư duy hoạch định chính sách đối ngoại của các quốc gia. Khi các nhà nghiên cứu đứng trên nhận thức luận của chủ nghĩa hiện thực, Chủ thể chính trong hệ thống quốc tế là các quốc gia - dân tộc có chủ quyền trong khi các chủ thể khác như các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các công ty đa quốc gia, các nhóm hay các cá nhân không có vai trò đáng kể. Về bản chất, hệ thống quan hệ quốc tế là một hệ thống vô chính phủ, không tồn tại một quyền lực đứng trên các quốc gia nhằm điều chỉnh và quản lí mối quan hệ giữa họ với nhau. Chính vì vậy, mục tiêu của các quốc gia là tìm cách nâng cao quyền lực nhằm tự đảm bảo an nin và sự tồn tại của mình trong hệ thống thông qua việc cố gắng giành được càng nhiều nguồn lực càng tốt.

Về chủ nghĩa tân hiện thực (neo-realism) nhấn mạnh cấp độ phân tích hệ thống quốc tế khi phân tích nguyên nhân các quốc gia tìm cách theo đuổi quyền lực. Theo đó, các nhà tân hiện thực cho rằng trong một hệ thống vô chính phủ, sự phân bổ quyền lực tương đối giữa các quốc gia trong hệ thống chính là yếu tố then chốt đối với an ninh của mỗi quốc gia. Vì thế các quốc gia tìm cách nâng cao quyền lực, vì càng có nhiều quyền lực thì vị trí của nước đó trong hệ thống thế giới càng cao và an ninh của quốc gia đó càng được đảm bảo.

Mặt khác các quốc gia cũng tìm cách cân bằng quyền lực với những quốc gia mạnh hơn nhằm giảm thiểu sự chênh lệch về quyền lực, đồng nghĩa với giảm thiểu các đe dọa về an ninh. Theo các nhà tân hiện thực, chiến tranh giữa các quốc gia xảy ra bắt nguồn từ cuộc chạy đua nhằm nâng cao quyền lực tương đối của mỗi quốc gia so với các quốc gia khác trong hệ thống chứ không phải do những khiếm khuyết trong bản chất con người như những lập luận của chủ nghĩa hiện thực cổ điển. Do nhấn mạnh tác động của bản chất hệ thống quốc tế đối với chính sách theo đuổi quyền lực của các quốc gia nên chủ nghĩa tân hiện thực còn được gọi là chủ nghĩa hiện thực cấu trúc.

Chủ nghĩa tân tự do (neo-liberalism), còn được biết đến với tên gọi “chủ nghĩa tự do thể chế” (institutional liberalism) là một nhánh của Chủ nghĩa tự do. Chủ nghĩa tự do (liberalism) hay cách “tiếp cận tự do” là một trong những trường phái quan trọng nhất trong lý thuyết quan hệ quốc tế. Xuất hiện từ thời kỳ cải cách tôn giáo thế kỷ 16 ở Châu Âu, chủ nghĩa tự do đã phát triển thành một trường phái gồm nhiều nhánh tư tưởng khác nhau mặc dù cùng chung những giả định cơ bản. Theo đó, chủ nghĩa tự do đề cao vai trò của các cá nhân, hạn chế vai trò của nhà nước, nhấn mạnh nguyên tắc thượng tôn pháp luật đồng thời bảo vệ các quyền tự do dân sự cá nhân, quyền sở hữu tư nhân… Theo đó, đối với chính trị trong nước, chủ nghĩa tự do cho rằng các chính thể cần tôn trọng và bảo vệ quyền tự do của các cá nhân, đặc biệt là các quyền tự do dân sự, đồng thời hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động của nền kinh tế.

Đối với chính trị quốc tế, chủ nghĩa tự do đề cao vai trò của các cá nhân, tổ chức với tư cách là các tác nhân trong quan hệ quốc tế bên cạnh nhà nước. Khác với chủ nghĩa hiện thực vốn nhấn mạnh khía cạnh ích kỷ, xấu xa của bản chất con người và cho rằng quan hệ quốc tế là một trò chơi có tổng bằng không trong đó các quốc gia luôn cạnh tranh lẫn nhau, chủ nghĩa tự do nhấn mạnh khả năng tiến bộ của con người và cho rằng các quốc gia thay vì cạnh tranh có thể hợp tác với nhau để cùng đạt được lợi ích chung, đặc biệt là thông qua các thể chế quốc tế.

Chủ nghĩa tân tự do ra đời trong những năm 1980, khi hợp tác giữa các quốc gia trở thành xu thế chủ đạo của chính trị quốc tế. Khác với trường phái tự do cổ điển tập trung vào câu hỏi chiến tranh hay hòa bình, chủ đề chính của chủ nghĩa tân tự do là các thể chế, định chế, quy tắc, luật pháp quốc tế và sự tương tác của các yếu tố này với lựa chọn chính sách của mỗi nhà nước.

Cùng chia sẻ giả định về một thế giới “vô chính phủ”, tức là không có một quyền lực vượt trội nào đóng vai trò “siêu nhà nước” để điều phối, tổ chức và chế tài quan hệ giữa các quốc gia, chủ nghĩa tân tự do đặt ra câu hỏi: tại sao các quốc gia lại đồng ý tổ chức và tham gia vào các thể chế quốc tế?  Để trả lời câu hỏi trên, các tác giả theo trường phái tân tự do đưa ra nhiều lập luận. Một trong những điểm quan trọng nhất là các chính phủ phải trả một cái giá cao hơn rất nhiều nếu không tham gia, hoặc quyết định tham gia trễ hơn vào hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong khuôn khổ các thể chế quốc tế. Cơ sở lý thuyết cho lập luận này được mô phỏng qua lý thuyết trò chơivới ví dụ điển hình là trò chơi “thế lưỡng nan của tù nhân”. Bài học từ trò chơi này cho thấy, cũng như những người tù trong trò chơi, các quốc gia cũng thường lâm vào các huống lưỡng nan trong quan hệ quốc tế liên quan đến vấn đề có nên tham gia hợp tác với các quốc gia khác hay không.

Sự khác biệt trong quan điểm về quyền lực, về quan hệ hợp tác song phương, đa phương giữa các quốc gia dẫn đến cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tân hiện thực được biết đến với tên gọi  “Neo-Neo-Debate”.

Ths Đoàn Thị Cẩm Vân 

(Còn tiếp)

Tài liệu tham khảo

  1. Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
  2. Thuật ngữ Quan hệ quốc tế, Đại học Quốc gia TP.HCM, NXB Chính trị Quốc gia sự thật