star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào Bình dân học vụ - Giá trị và ý nghĩa


Ngày 3/9/1945 trong buổi họp Hội đồng Chính phủ phiên đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu luận điểm “Một Dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Tháng 10/1946 khi đi công tác ở Pháp về đến Hải Phòng, Bác có lời kêu gọi nhân dân toàn quốc: Ra sức chống giặc dốt làm cho dân tộc Việt Nam thành dân tộc thông thái. Những lời kêu gọi của Bác còn giữ nguyên sự thôi thúc cho cuộc sống hôm nay.

Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, các thành viên Chính phủ đã thống nhất với 6 nhiệm vụ cấp bách mà Chủ tịch chính phủ Hồ Chí Minh đề xuất: “Phát động tăng gia sản xuất, mở các cuộc lạc quyên để chống nạn đói. Mở phong trào chống nạn mù chữ. Tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Mở phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, bài trừ các tệ nạn do chế độ thực dân để lại. Xóa bỏ các thứ thuế vô lý, trước mắt là thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyệt đối cấm hút thuộc phiện. Tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết”. Như vây, chiến dịch diệt “giặc dốt” đóng vai trò quan trọng thứ hai sau diệt “giặc đói”. Khi dân trí được nâng cao sẽ tạo tiền đề, mở lối cho những tư tưởng cách mạng thấm nhuần vào quần chúng, tôn thêm nền móng vững chắc để chính quyền non trẻ vượt qua những thử thách sống còn.

Dưới thời cai trị của thực dân Pháp, 95% dân số Việt Nam mù chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy, Chính phủ đã ban hành ngay rất nhiều các quyết sách để khắc phục tình trạng này. Từ ngày 08/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tục ký các sắc lệnh: Sắc lệnh số 17 đặt ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam, Sắc lệnh số 19 lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối, Sắc lệnh số 20 định rằng việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền.

Để phục vụ chiến dịch xoá mù chữ, Nha Bình dân học vụ được thành lập ngày 18 tháng 9 năm 1945. Ngày 4 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Chống nạn thất học gửi tới toàn dân: "...Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức, mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ…Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi." Các lớp học Bình dân học vụ được mở khắp nơi ở cả ba miền thu hút sự tham gia của mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp nhân dân.

Dạy học có các thầy, cô giáo, nhưng chủ yếu theo phương châm người biết chữ tham gia dạy, người chưa biết chữ thì học, người biết ít vừa dạy cho người chưa biết vừa học những người biết nhiều hơn. Mọi người dân đều nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với việc học.

Để bắt buộc mọi người tham gia học tập, các địa phương đều có biện pháp mạnh như: Những ai không chịu đi học đều bị chế giễu, khắp đường của các thôn hay cổng vào chợ đều có trạm kiểm tra bằng cách dựng cổng chào với hình thức đẹp, trên có bảng chữ đề sẵn, đến nơi ai đọc được thì đi qua cổng chính, ai không đọc được thì phải quay về hoặc luồn qua một nách tre thấp, hẹp bên cổng lớn.

Phong trào Bình dân học vụ đã trở thành một phần của phong trào Thi đua kháng chiến kiến quốc, góp phần quan trọng vào công cuộc diệt giặc dốt. Chỉ trong khoảng thời gian hơn một năm tuyên bố độc lập, phong trào Bình dân học vụ cả nước đã giúp hơn 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Đến năm 1952, chiến dịch xóa nạn mù chữ cơ bản được hoàn thành.

Không chỉ xóa nạn mù chữ mà ngành Giáo dục lúc bấy giờ còn mở thêm các lớp bổ túc văn hóa để nâng cao trình độ văn hóa của cán bộ và nhân dân lao động nhằm phát triển hệ thống giáo dục nước nhà, góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Phong trào Bình dân học vụ đã được lan tỏa rộng khắp.

Một ngày sau khi thành lập, để xác định cách tổ chức và hoạt động cho phong trào, Nha Bình dân học vụ liên tiếp tổ chức các lớp huấn luyện ở Hà Nội và các miền. Giáo viên bình dân học vụ thuộc đủ các giới, lứa tuổi, hễ biết chữ là tham gia. Họ dạy học, dựng trường, tạo lớp, tìm kiếm học phẩm, cổ động học viên. Có lớp có giáo viên, nhưng có lớp giao cho người trong nhà dạy lẫn nhau, chồng dạy vợ, con dạy mẹ, anh chị dạy em.

GS.TS Phạm Tất Dong - Nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam – đánh giá, phong trào Bình dân học vụ đã để lại nhiều bài học vô cùng quý giá, còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.

Thứ nhất, bình dân học vụ theo đuổi mục tiêu đúng đắn là phải để mỗi người dân được tiếp cận với giáo dục bằng cách tạo cơ hội đi học. Đây là bài học đắt giá và quan trọng nhất mà đến nay khi triển khai xã hội hóa học tập, việc này vẫn là ưu tiên số một.

Thứ hai, giáo dục phải đi vào cộng đồng, quần chúng lao động. Nếu chỉ phục vụ cho những người có tiền, ở tầng lớp thượng lưu, giáo dục không trọn vẹn ý nghĩa. Để toàn dân có thể đi học, những trung tâm học tập cộng đồng, thường xuyên cần được thành lập. Những nơi này gần gũi với người dân, thuận tiện đi lại tương tự lớp bình dân học vụ xưa được tổ chức ngay tại làng, xã.

Thứ ba, giáo dục và các mục tiêu học tập cụ thể luôn cần gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Trước kia, việc xóa mù ngoài giúp dân biết chữ, có hiểu biết còn gắn với mục tiêu chính trị. Ngày nay, bài học này thể hiện ở việc phát triển giáo dục gắn với yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, gắn với chương trình chuyển đổi số.

Có thể nói rằng, phong trào Bình dân học vụ đã tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp giáo dục phát triển như hiện nay. Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào Bình dân học vụ, nền giáo dục Việt Nam đã có những phát triển vượt bậc và gặt hái được nhiều thành công. Từ chỗ 95% dân số Việt Nam mù chữ năm 1945, đến nay, gần 100% người dân đều đã biết chữ. Năm 2023, cả nước có 76,19% đơn vị cấp tỉnh đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; 93,62% đơn vị cấp huyện đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2 và 97,67% đơn vị cấp xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2. Tỷ lệ người trong độ tuổi 15 - 60 tuổi biết chữ mức độ 1 và mức độ 2 lần lượt là 98,85% và 97,29%. Đây là những thành tích rất đáng tự hào”.

Th.s Nguyễn Tấn Tài – Giảng viên Tổ LLCT