star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc - giai cấp và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay


            Trong Chánh cương thành lập Đảng (năm 1930), Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây chính là tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Vì vậy, đánh đổ đế quốc và địa chủ phong kiến giành độc lập dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là mục tiêu của cách mạng Việt Nam.

Xã hội Việt Nam trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có ba mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ; mâu thuẫn giữa toàn dân tộc với thực dân Pháp và bè lũ tay sai; mâu thuẫn giữa công nhân với tư sản Pháp. Hồ Chí Minh đã phát hiện ra những nét đặc thù của Việt Nam so với các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phương Tây. Nếu như ở phương Tây, mâu thuẫn giai cấp đã trở nên sâu sắc thì ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa thực dân Pháp và bè lũ tay sai là mâu thuẫn hàng đầu.

Vì vậy, Người cho rằng, trong hai nhiệm vụ đánh đổ đế quốc và đánh đổ phong kiến, cần tập trung cho nhiệm vụ đánh đổ đế quốc giành độc lập dân tộc, còn đánh đổ phong kiến thực hiện sau. Với mục tiêu tập trung lực lượng để chống kẻ thù số một của dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Xuất phát từ lợi ích, truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, đây chính là cội nguồn để toàn thể nhân dân Việt Nam muôn người như một chống lại kẻ thù chung, giành độc lập cho dân tộc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” đều phản ánh lợi ích chung, nguyện vọng chung của toàn dân tộc, đều nhằm vào kẻ thù chủ yếu lúc này là thực dân Pháp và bọn tay sai phản động. Còn giải quyết mâu thuẫn giai cấp, đánh đổ phong kiến sẽ thực hiện sau khi dân tộc đã được độc lập, giành lấy dân chủ và đi lên CNXH, chủ nghĩa cộng sản.

Từ nhận thức về đối tượng của cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam – khi Người phân tích, đánh giá vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong cách mạng, đặc biệt là thái độ của các giai cấp đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc đã ăn sâu, bám chặt vào quần chúng trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, chính vì điều đó mà ngay cả các nhà tư sản dân tộc, thậm chí những người đứng đầu của chế độ phong kiến như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân… cũng nổi dậy chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp.

Từ thực tiễn đó, với một nhãn quan chính trị nhạy bén, Hồ Chí Minh khi xem xét, đánh giá hai giai cấp đối lập với giai cấp công nhân và nông dân là giai cấp tư sản và địa chủ đã cho rằng, về lợi ích kinh tế thì tư sản và địa chủ là những giai cấp bóc lột, đối lập với lợi ích cơ bản của công nhân và nông dân. Nhưng xét về lợi ích dân tộc, trước hết là độc lập dân tộc thì tư sản và địa chủ là những giai cấp không thuần nhất. Một bộ phận đi hẳn về phía thực dân, đế quốc (tư sản mại bản hay “đại tư sản” và đại địa chủ), trong khi một bộ phận khác (tư sản dân tộc, phú nông, trung địa chủ, tiểu địa chủ, tiểu tư sản…) có thể đồng hành cùng dân tộc, họ “tuy hai mà một, một mà hai”.

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương: chúng ta phải có thái độ khôn khéo, mềm dẻo, phải hết sức lôi kéo họ, thúc đẩy họ hành động nếu có thể, cô lập họ về chính trị nếu cần, chí ít là trung lập họ, “tránh hết sức để họ ra ngoài Mặt trận, vì như thế là đẩy họ rơi vào tay bọn phản động, là tăng thêm lực lượng cho chúng”.

Quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng ta là đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc trong mối quan hệ thống nhất biện chứng – lợi ích của giai cấp gắn liền với lợi ích của dân tộc, lợi ích của dân tộc được thể hiện ở bản chất lợi ích của giai cấp. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước, bài học kinh nghiệm này càng được Đảng ta tiếp tục quán triệt và phát huy.

Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết quan hệ dân tộc và giai cấp trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải giải quyết một cách toàn diện ở nhiều lĩnh vực, trong đó, trước hết tập trung giải quyết các quan hệ lợi ích: lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích toàn dân tộc; lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích các giai cấp, tầng lớp khác; lợi ích của dân tộc Việt Nam với lợi ích các dân tộc khác và lợi ích quốc tế nói chung trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Trong nhiều văn kiện Đại hội, Đảng ta đều xác định mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Đồng thời, chỉ rõ phương hướng và mục tiêu tổng quát của công tác xây dựng Đảng là tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân.

Cùng với đó là mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Muốn tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành tựu to lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc ở Việt Nam.

Th.s Nguyễn Tấn Tài – Giảng viên Tổ LLCT