1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - một tấm gương tiêu biểu về hoạt động
tổng kết thực tiễn
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với thực tiễn cách mạng. Từ nhỏ, Người đã trải qua nhiều gian khổ, mất mẹ năm 11 tuổi, phải nuôi em, theo cha bôn ba, chứng kiến cảnh dân nghèo bị áp bức. Những trải nghiệm ấy hun đúc ý chí cứu nước. Người từng tham gia phong trào chống thuế Trung Kỳ, làm thông ngôn truyền đạt tiếng nói của nhân dân, nên bị thực dân theo dõi.
Từ việc nghiên cứu, tổng kết các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra chân lý: muốn giải phóng dân tộc triệt để thì trước hết phải giành độc lập dân tộc, vì không có độc lập thì không thể giải quyết được vấn đề giai cấp.
Người trân trọng tinh thần yêu nước và đóng góp của các bậc tiền bối nhưng cũng chỉ rõ hạn chế trong mục tiêu và phương pháp cách mạng của họ, xem đây là nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước đương thời. Từ đó, Người luôn trăn trở với câu hỏi lớn: “Làm sao để cứu nước, giải phóng dân tộc?”
Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã đi qua nhiều quốc gia, trải nghiệm nhiều nghề lao động khác nhau. Qua đó, Người tiếp thu những tinh hoa văn hóa – chính trị của nhân loại, đặc biệt là thực tiễn các cuộc cách mạng tư sản phương Tây. Người nhận định, đó là những cuộc cách mạng không triệt để, bởi chúng vẫn duy trì sự áp bức công – nông và các dân tộc thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt đánh giá cao thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, coi đó là cuộc cách mạng triệt để nhất, có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với các dân tộc bị áp bức. Người ví nó như "mặt trời chói lọi" thức tỉnh hàng triệu con người trên toàn thế giới. Đây không phải là nhận định cảm tính mà là kết quả của quá trình nghiên cứu, tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng toàn cầu.
Từ thực tiễn lịch sử, Người khẳng định: “Chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi”, vì đó là cuộc cách mạng đầu tiên đưa công – nông lên nắm chính quyền.
2. Hồ Chí Minh - nhà lý luận sắc sảo
Từ thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra một bài học có ý nghĩa quyết định: các phong trào ấy thiếu một lý luận tiên phong dẫn đường. Người dẫn lại lời của V.I. Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”, và khẳng định chỉ có một chính đảng được trang bị lý luận tiên phong mới có thể đảm nhận vai trò đội quân tiền phong của cách mạng. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc quyết tâm đi tìm con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam – con đường có nền tảng là lý luận cách mạng khoa học.
Nguyễn Ái Quốc lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước và trên mảnh đất Nghệ An – nơi hun đúc tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc, ngay từ rất sớm thấm nhuần đạo lý phương Đông với truyền thống Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín, đồng thời tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của phương Tây, đặc biệt là khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của cách mạng Pháp. Người ham học hỏi, khát khao tìm hiểu chân lý ẩn sau những mỹ từ mà thực dân Pháp đã dùng để che đậy ách áp bức, bóc lột ở các thuộc địa.
Trong hành trình gần 10 năm bôn ba qua nhiều châu lục (1911–1920), Nguyễn Ái Quốc không ngừng tìm tòi, khảo nghiệm các học thuyết cách mạng. Năm 1920, khi tiếp cận chủ nghĩa Mác – Lênin qua Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã nhận ra đây chính là chân lý mà dân tộc Việt Nam cần – con đường cách mạng vô sản. Đây là bước ngoặt lớn, đánh dấu sự chuyển biến từ một người yêu nước thành một chiến sĩ cộng sản chân chính.
Không chỉ tiếp nhận lý luận, Nguyễn Ái Quốc còn hiện thực hóa lý luận đó bằng hành động: tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Năm 1924, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người còn nghiên cứu tư tưởng của Tôn Dật Tiên, kế thừa các yếu tố tích cực trong chủ nghĩa Tam Dân, nhất là mục tiêu “độc lập – tự do – hạnh phúc” cho dân tộc.
Từ sự kết tinh giữa lý luận cách mạng tiên phong và thực tiễn phong trào đấu tranh, tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước hình thành, phát triển và trở thành tài sản lý luận quý báu của cách mạng Việt Nam. Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh thuộc địa, đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu, coi độc lập dân tộc là yêu cầu bức thiết, là điều kiện tiên quyết để tiến tới chủ nghĩa xã hội.
3. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải gắn liền với sự định
hướng chính sách
Với Hồ Chí Minh, lý luận không chỉ để học tập, nghiên cứu rồi dừng lại ở tổng kết, mà quan trọng hơn là phải chuyển hóa thành chính sách thực thi hiệu quả trong thực tiễn cách mạng. Từ nhận thức đó, Người luôn gắn kết chặt chẽ giữa tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và hoạch định chính sách – coi đây là nguyên tắc căn bản để lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng.
Nguyễn Ái Quốc là tấm gương sáng ngời về sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Sau khi tiếp thu lý luận Mác – Lênin và tổng kết phong trào cách mạng thế giới, Người đã tham gia sáng lập nhiều tổ chức như Đảng Xã hội Pháp, Đảng Cộng sản Pháp, đồng thời tích cực viết báo, tuyên truyền lý luận cách mạng. Đặc biệt, năm 1925, tại Quảng Châu, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – một tổ chức tiền thân nhằm chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức và cán bộ cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tại các lớp huấn luyện của Hội, Người truyền dạy những nội dung lý luận thiết yếu: lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, ba Quốc tế, cách mạng tháng Mười Nga, cách mạng Tân Hợi, Tam dân chủ nghĩa… Việc truyền bá lý luận đi đôi với xây dựng tổ chức là bước chuẩn bị quan trọng để hình thành một chính đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam.
Trên nền tảng lý luận và tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, từng bước đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đứng trước muôn vàn khó khăn, Người đề ra chính sách “thêm bạn bớt thù”, tận dụng mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc, khéo léo dẫn dắt dân tộc vượt qua thế “ngàn cân treo sợi tóc”, giữ vững độc lập.
Trong kháng chiến chống Pháp, chính sách “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh” đã được Hồ Chí Minh và Đảng ta hoạch định, tổ chức thực hiện hiệu quả, dẫn đến chiến thắng lừng lẫy Điện Biên Phủ năm 1954 – kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc và tiến tới thống nhất đất nước.
Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: muốn chính sách thành công, phải có cán bộ tốt thực hiện. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người nhấn mạnh: “Cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân”, là người triển khai chính sách đến tận cơ sở và phản ánh thực tiễn ngược trở lại để điều chỉnh chính sách cho sát với thực tế.
Chính sách với cán bộ, theo Hồ Chí Minh, phải toàn diện, đúng người đúng việc, phù hợp hoàn cảnh. Trong Di chúc, Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình... phải tìm mọi cách để họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, được học nghề để tự lực cánh sinh”. Đó không chỉ là chính sách nhân văn, mà còn là quan điểm nhất quán về xây dựng nguồn lực con người cho cách mạng.
Từ hành trình bôn ba qua ba đại dương, bốn châu lục, gần ba mươi quốc gia với muôn vàn khó khăn, Người đã tiếp cận thực tiễn phong phú của thế giới, hun đúc ý chí "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi". Cùng với việc tiếp thu tinh hoa của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành nên hệ tư tưởng của riêng mình, làm nền tảng cho việc đề ra đường lối cách mạng đúng đắn và hiệu quả. Người khẳng định: "Trước hết phải có Đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công". Trong suốt 24 năm lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn gắn bó chặt chẽ giữa tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và hoạch định chính sách, từ đó đưa cách mạng Việt Nam đến thành công, góp phần tạo dựng vị thế của đất nước hôm nay.
Th.S Hoàng Thị Kim Oanh – Bộ môn Lý luận chính trị