star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM – YÊN TỬ


          Phật giáo hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ V tr.CN bởi câu chuyện giác ngộ của Thái tử Siddhārtha Gautama tiểu quốc Shakya (hay Shakyamuni/Thích Ca Mâu Ni). Sau khi giác ngộ hoàn toàn, Ngài niết bàn và trở thành Phật (Đức Phật/Phật Tổ). Thời của Đức Phật không chia bộ phái nên còn gọi là Phật giáo nguyên thủy. Một thời gian dài sau khi Đức Phật niết bàn, Phật giáo bắt đầu phân chia thành nhiều hướng truyền thừa khác nhau, trong đó hai con đường cơ bản là Phật giáo Nam truyền Phật giáo Bắc truyền. Cần bàn thêm về tên gọi Tiểu thừa (Hīnayāna) và Đại thừa (Mahāyāna). Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học chủ trương sử dụng thuật ngữ Phật giáo Nam truyềnPhật giáo Bắc truyền thay cho cụm từ “tiểu thừa” và “đại thừa”. Sự phân chia giữa Đại thừaTiểu thừa chủ yếu xoay quanh mâu thuẫn về các giới luật, về tu tập, quan niệm về đắc đạo, về Phật, v.v. Sau thời Đức Phật, tăng già Phật giáo chia thành hai trường phái. Một là Trưởng lão bộ (Sthaviravāda, bao gồm những tăng già lớn tuổi chủ trương giữ nguyên giáo lý Phật giáo nguyên thủy). Về sau, Thượng tọa bộ (Theravāda) trở thành đại diện tiêu biểu và có sức ảnh hưởng gần như tuyệt đối của Trưởng lão bộ, phát triển ở Sri Lanka rồi lan xuống các nước Đông Nam Á và một phần nhỏ ở Vân Nam, gọi là Phật giáo Nam truyền (tên gọi Tiểu thừa hướng đến Thượng tọa bộ bởi những người theo Đại chúng bộ). Hai là Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika, tập hợp phần lớn các tăng già chủ trương cách tân giáo lí Phật giáo), phát triển theo hướng từ Ấn Độ qua Trung Á, đến Trung Quốc rồi lan sang Triều Tiên, Nhật Bản, gọi là Phật giáo Bắc truyền, là tiền thân của “Đại thừa Phật giáo”. Vậy nên khi gọi Phật giáo Bắc truyền (Bắc tông) tức ám chỉ con đường phát triển từ Ấn Độ lên phía Bắc và một phần lan xuống Đông Nam Á, Phật giáo Nam truyền (Nam tông) tức ám chỉ con đường phát triển từ Ấn Độ sang Trung Quốc rồi mới xuống phía Nam. Để đảm bảo tính nhất quán, bài viết sử dụng Phật giáo Bắc truyền thay cho Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Nam truyền thay cho Phật giáo Tiểu thừa và giữ nguyên tên gọi các tông phái nhỏ hơn được du nhập vào Việt Nam sau này.

Phải khẳng định một điều rằng Việt Nam là một trong số ít các quốc gia có sự giao thoa mạnh mẽ giữa Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền. Nhiều nhà sử học cho rằng đến khoảng thế kỉ I tr.CN, Phật giáo đã có mặt trên đất Giao Chỉ bởi Luy Lâu khi này đã trở thành trung tâm Phật giáo khá lớn, có thể xuất hiện trước cả hai trung tâm Phật giáo Trung Hoa thời Hậu Hán là Lạc Dương và Bành Thành. Tư tưởng Phật giáo lúc này chủ yếu được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ với con đường giảng đạo của sư Khâu Đà La (Ksudra) cùng các sự tích về nàng Man Nương và Thạch Quang Phật (khoảng thế kỉ II). Ngoài ra, trong các truyện cổ dân gian Việt Nam, bên cạnh hình tượng ông Tiên (nguyên mẫu là Lão Tử), còn có sự xuất hiện của hình tượng ông Bụt, từ gốc là Buddha (nguyên mẫu là Đức Phật). Như vậy, có thể thấy, từ đầu công nguyên đến hết thời kì Bắc thuộc là quá trình hình thành và thâm nhập vào đời sống nhân dân rộng khắp của tư tưởng Phật giáo ở Việt Nam, bên cạnh Nho giáo và Lão giáo được tiếp nhận từ Trung Quốc. Điều này đã góp phần hình thành tư duy “Đất Vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” đã hằn sâu vào tiềm thức của người Việt xưa. Tuy vậy, dòng Phật giáo Nam truyền nhanh chóng hòa nhập với lớp văn hóa bản địa như tín ngưỡng thờ Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện và trở thành một mạch ngầm so với Phật giáo Bắc truyền sau này. Trong suốt thời kì Bắc thuộc, Phật giáo Giao Chỉ không có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Chính vì thế, gần như đời sống Phật giáo ở nước ta lúc này chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Phật giáo Trung Hoa, đặc biệt là các văn liệu kinh sách. Trong quá trình Trung Hoa hoá Phật giáo, Việt Nam đón nhận mạnh mẽ nhất là Thiền tông.

Nói đến tư tưởng Phật giáo ở Việt Nam thì chủ yếu là ảnh hưởng của Phật giáo Thiền tông. Tuy vậy, mặc dù tư tưởng Thiền tông ở Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi Thiền tông Ấn Độ (Tôn giả Ma-ha-ca-diếp) và Thiền tông Trung Hoa (Bồ-đề-đạt-ma) nhưng sơ kì Thiền tông ở Việt Nam xuất hiện rất sớm với Thiền tổ được cho là sư Khương Tăng Hội (trước thời Bồ-đề-đạt-ma). Tuy vậy bản thân pháp thiền của ông mới dừng lại ở thiền quán hơi thở, chưa trở thành một quan niệm tu tập và có giáo lí bài bản. Thiền tông ở Việt Nam chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn sau với nhiều khuynh hướng tiếp nhận khác nhau với ba con đường truyền thừa cơ bản. Đầu tiên là con đường truyền đạo của Thiền sư Vinitaruci (học trò của Tam tổ Thiền tông Trung Hoa Tăng Xán) vào thế kỉ VI, lập ra Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi (thiền phái này có mối liên hệ với Mật tông). Một số thiền sư nổi bật có thể kể đến là sư Pháp Thuận, sư Từ Đạo Hạnh, sư Vạn Hạnh. Thứ hai là con đường truyền đạo của Thiền sư Vô Ngôn Thông (học trò của Bách Trượng Hoài Hải đời Đường, truyền thừa Thiền Nam tông của Lục tổ Thiền tông Trung Hoa Huệ Năng) vào khoảng thế kỉ IX, lập ra Thiền phái Vô Ngôn Thông. Một số thiền sư nổi bật có thể kể đến là sư Khuông Việt, sư Viên Chiếu, sư Mãn Giác, sư Minh Không. Thứ ba là con đường truyền đạo của Thiền sư Thảo Đường (học trò Thiền phái Vân môn tông, bị Chiêm Thành bắt giữ khi đang truyền đạo, sau khi nhà Lý đánh thắng Chiêm Thành thì ông được vua Lý Thánh Tông coi trọng, đề làm Quốc sư) vào thế kỉ XI, hình thành Thiền phái Thảo Đường. Một số Vua nhà Lý như Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông đều tu tập theo Thiền phái này. Thế nhưng cả ba Thiền phái này đều không được duy trì lâu dài. Tuy vậy, giá trị mở đường của cả ba dòng Thiền trên là vô cùng to lớn, tác động trực tiếp đến dòng chảy của Phật giáo Thiền tông Việt Nam sau này. Nếu như phái Tì Ni Đa Lưu Chi có mối quan hệ mật thiết với Mật tông, các thiền sư đa phần đều biết phép thuật bùa chú thì phái Thảo Đường lại đề cao tri thức và văn chương, có tác động sâu sắc đến văn học Phật giáo thời Lý và ảnh hưởng đến một số thiền sư ở hai dòng thiền còn lại. Không những vậy, sự hòa hợp giữa Phật giáo với văn hóa bản địa, giữa Phật giáo với Nho giáo, Đạo giáo và giữa các tông phái Phật giáo với nhau đã tạo nên một hệ tư tưởng Phật giáo rất riêng. Chẳng hạn như Mật tông nhanh chóng được bản địa hóa tạo nên những tín ngưỡng thực hành thần chú như cầu đồng, trấn yểm, bùa phép, trừ tà hay như Thiền tông vào Việt Nam kết hợp với Tịnh độ tông và Mật tông hình thành quan niệm “Tam thế chư Phật”. Thiền tông Việt Nam chính thức hội tụ dưới thời nhà Trần với sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm - Yên Tử. Đây kết tinh của ba dòng thiền đã có mặt trước đó: thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi (thế kỷ VI), thiền phái Vô Ngôn Thông (thế kỷ XI), thiền phái Thảo Đường (thế kỷ XI-XII) và có sự pha trộn với thiền phái Lâm Tế. Kể từ đây trở đi, Thiền tông ở Việt Nam có thể được gọi là Thiền tông Việt Nam với ngọn cờ đầu là Thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử.

 

Cho đến thời Lý, Phật giáo vẫn giữ vai trò của Quốc giáo nhưng bắt đầu xuất hiện hạn chế rõ nét. Thứ nhất, Phật giáo thời kỳ này chưa mang tính thống nhất và hình thành một tổ chức/giáo hội Phật giáo đứng lên làm đầu tàu. Bên cạnh ba dòng thiền nổi bật ở trên vẫn tồn tại một vài nhánh thiền nhỏ khác. Điểm này khiến Phật giáo cả nước thiếu tính liên kết, sự tu tập chủ yếu là tự phát và mang tính cô lập, không có sự liên kết trong quảng đại quần chúng. Thứ hai, nếu như Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi sớm mất vị thế thì thiền phái Thảo Đường lại rơi vào tình trạng dòng thiền thế tục (những người tu tập có trách nhiệm thế sự phải gánh vác trên thân). Nếu nhìn vào phả hệ truyền thừa, chúng ta rất nhận thấy đây là một dòng thiền phục vụ cho một giai tầng cụ thể. Đặc biệt ở đời truyền thừa cuối cùng (thế thứ 5), trong 4 người thì có đến 3 người là vua quan: Vua Lý Cao Tông, Xướng nhi quản giáp Nguyễn Thức và Phụng ngự Phạm Đẳng. Điều này làm cho Phật giáo thời vãn Lý và đầu Trần mất dần vai trò trong đời sống xã hội khi nó xa rời nhân dân. Điểm đại chúng hoá Phật giáo đã được thiền phái Trúc Lâm giải quyết triệt để. Vậy nên nhiều người đồng tình với quan điểm cho rằng thực chất dòng thiền Trúc Lâm là sự tiếp nối và phát triển của thiền phái Thảo Đường trên cơ sở khắc phục những tồn đọng. Nhận xét về sự không thịnh của phái Thảo Đường, trong sách Việt Nam Phật giáo sử luận chỉ rõ: “Vì khuynh hướng thiên trọng trí thức và văn chương của thiền phái Thảo Đường, nên thiền phái này đã không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng đến một số trí thức có khuynh hướng văn học”; vậy nên “thiền phái Thảo Đường đã không đủ sức tạo nên một truyền thống sinh hoạt tăng viện độc lập có thể lưu truyền về sau” và “ảnh hưởng của thiền phái này chỉ đáng kể về mặt học tập”. Không quá khi nói rằng từ nhà Ngô đến trước Trần Nhân Tông, tư tưởng Phật giáo Thiền tông ở Việt Nam chủ yếu là vay mượn và học hỏi từ Thiền tông Trung Hoa, mặc dù thịnh thế ở thời Lý.

Sự xuất hiện của Trần Nhân Tông và thiền phái Trúc Lâm Yên Tử như một cột mốc quan trọng của Thiền tông Việt Nam. Nó đã đóng góp tích cực vào công cuộc dựng xây và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc. Xét về mặt phả hệ truyền thừa, thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử là sự tiếp nối của phái Yên Tử (Thiền sư Hiện Quang của phái Vô Ngôn Thông lên núi Yên Tử ẩn tu). Vua Trần Thái Tông từng có thời gian lên núi học đạo với đệ tử của thiền sư Hiện Quang là thiền sư Đạo Viên, và được phong hiệu là Trúc Lâm Quốc sư. Tiếp nối qua thêm hai thế hệ nữa là thiền sư Đại Đăng và thiền sư Tiêu Dao thì xuất hiện Tuệ Trung Thượng Sĩ (một cư sĩ Thiền tông xuất sắc, đệ tử thiền sư Tiêu Dao) là thầy dạy đạo cho vua Trần Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà). Tuy vậy theo phả hệ, Trần Nhân Tông được xem là đệ tử thừa truyền của thiền sư Huệ Tuệ (đệ tử của thiền sư Tiêu Dao). Tính từ lúc Phật hoàng Trần Nhân Tông xuất gia và hoằng pháp thì Thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử chỉ tiếp nối thêm được 3 đời (Trúc Lâm Tam Tổ: Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang), sau đó không rõ thịnh suy, 15 đời truyền sau mặc dù được ghi chép trong Đại nam thiền uyển truyền đăng lục nhưng cũng không có nhiều thông tin về các vị thiền sư tiếp nối. Thiền phái Trúc Lâm của Trần Nhân Tông đã khắc phục được những hạn chế của Phật giáo thời kì trước, trở thành một tổ chức tôn giáo có giáo lí, nguyên tắc chặt chẽ và lan toả sâu rộng trong đời sống của quảng đại quần chúng, đóng vai trò là một sợi dây liên kết cho đời sống tinh thần của dân tộc. Nhờ có Trần Nhân Tông, Phật giáo không còn dành riêng cho những người tu tập nương nhờ cửa Phật, cũng không còn là đặc quyền của vua quan quý tộc. Thiền Trúc Lâm ra đời không chỉ phản ánh mong muốn hoà hợp tôn giáo mà còn thể hiện khát vọng thống nhất và phát triển đất nước của một vị Hoàng đế - Thiền sư Trần Nhân Tông. Thiền phái Trúc Lâm là một nhánh thiền thuần Việt so với ba dòng thiền trước đó và mang đậm tính dân tộc. Thiền tông Việt Nam với sự ảnh hưởng to lớn của thiền phái Trúc Lâm chính là dấu gạch nối giữa rất nhiều đại lộ: tư tưởng Thiền tông xen lẫn Mật tông, tư tưởng Thiền tông xen lẫn Tịnh độ tông, giữa quan điểm triết học siêu nhiên Phật giáo với nhân sinh quan Nho giáo và vũ trụ quan Lão giáo; đặt nền tảng cho mô hình Tam giáo đồng nguyên ở phương diện văn chương nghệ thuật.

Công lao lớn nhất của Phật hoàng Trần Nhân Tông ở phương diện Đạo hạnh là xây dựng hệ tư tưởng cho thiền phái Trúc Lâm mà hạt nhân là quan niệm “Cư trần lạc đạo”; vui đạo ở đời, giữa cõi trần. Từ vãn Lý đến đầu triều Trần, Nho giáo bắt đầu chiếm vị thế độc tôn trong nhà nước phong kiến, Phật giáo và Đạo giáo mất dần vai trò của nó (từ Tam giáo tham gia triều chính ở thời Lý đến việc Tả Nhai - chức vụ cao nhất của Phật giáo trong xã hội, đã không còn quyền tham gia chính sự ở triều Trần). Đến giai đoạn của Trần Nhân Tông, ông không muốn toàn bộ xã hội nằm trọn trong vòng kìm toả của tư tưởng Nho giáo mà nuôi hy vọng phủ lên đời sống nhân dân màu sắc triết lí Phật giáo và chấn hưng Thiền phái Trúc Lâm; biến nó thành thế lực tinh thần có sự ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ đối với tầng lớp thống trị mà còn với toàn thể quảng đại quần chúng. Tư tưởng cốt lõi của Thiền phái Trúc Lâm hướng đến giải quyết các vấn đề xung quanh cái Tâm, mối quan hệ giữa sanh thân và cuộc đời, con đường giải thoát khổ ải, mối quan hệ giữa hữu và vô, v.v Đặc biệt đối với Trần Nhân Tông, ông kết hợp được những tinh yếu trên vào mô hình của một cư sĩ (người tu tại gia với những trọng trách trần đời); thể hiện rõ nét qua quan niệm “Cư trần lạc đạo”. Nếu thiền phái Thảo Đường mới chỉ dừng lại ở việc đề cao văn chương, đưa các giáo lí đạo Phật đến gần với giới trí thức (Nho sĩ) thì tư tưởng nhập thế tích cực của Phật giáo thời Trần góp phần hoàn thiện nền văn học Phật giáo buổi đầu dựng nước. Sách “Thiền uyển tập anh” ghi chép được gần 40 gương mặt vừa là thiền sư vừa là thi sĩ trong giai đoạn này, có thể kể đến như sư Pháp Thuận, sư Viên Chiếu, sư Vạn Hạnh, sư Từ Đạo Hạnh, sư Không Lộ, sư Mãn Giác; còn sách Thơ văn Lý Trần tổng hợp được 43 thi tăng và 35 vua – chúa quý tộc, trong số đó không ít người cũng tu tập theo giáo lý Phật giáo. Có thể nói, điểm đóng góp tích cực của Thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử chính là mở ra một chương mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam với một hệ tư tưởng mang đậm bản sắc dân tộc, tách khỏi sự bó buộc của tư tưởng Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa và đưa thơ ca Phật giáo Việt Nam thời kì đầu lên đến đỉnh cao trong việc truyền tải triết lí nhà Phật bằng ngôn từ nghệ thuật một cách đầy thẩm mỹ.

ThS. Lưu Đức Duy