star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

Biểu hiện và tác hại của bệnh “khinh lý luận” trong cán bộ, đảng viên


 

            Học tập lý luận chính trị là công việc thường xuyên, lâu dài đối với mỗi cán bộ, đảng viên nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng, từ đó vận dụng vào thực tiễn công tác. Tuy nhiên, hiện nay một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện lười học lý luận, nhất là lý luận chính trị. Bằng tư duy biện chứng và kinh nghiệm chính trị phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ nguyên nhân chủ yếu của bệnh “khinh lý luận” ở một bộ phận cán bộ, đảng viên là do tư tưởng “chưa thuần thục, trình độ lý luận còn non nớt”); và một bộ phận thì do tư tưởng “chủ quan”, “bảo thủ”, “tự túc, tự mãn”, “sống lâu lên lão làng”).

Trên đường đi tìm chân lý cứu nước, khi đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã hiểu rõ tầm quan trọng của chính đảng vô sản đối với một xứ thuộc địa như An Nam. Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Như vậy, với Hồ Chí Minh, để Đảng luôn vững mạnh thì điều quan trọng là tất cả cán bộ, đảng viên đều phải hiểu, nắm vững và tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin.

Người cũng chỉ rõ, “Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”. Vì thế, cùng với những ưu điểm, Đảng cũng dễ mắc phải những khuyết điểm nhất thời. Thời gian đầu thành lập, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức tiểu tư sản, khi Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền, từ một xã hội vừa thoát khỏi chế độ thuộc địa và phong kiến với nền kinh tế lạc hậu nên khó tránh khỏi những ảnh hưởng từ thói hư tật xấu của xã hội cũ. Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ ra những biểu hiện, vừa cảnh báo một cách khoa học khả năng phát sinh, phát triển của lối làm việc không đúng đắn, không phù hợp với thực tiễn, với bản chất của một chính đảng cách mạng, đặc biệt trong đó có bệnh “khinh lý luận”.

Hồ Chí Minh lần đầu nhắc đến bệnh “khinh lý luận” ở cán bộ, đảng viên trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (tháng 10-1947). Người nêu tên bệnh “khinh lý luận” đi cùng với các bệnh “kém lý luận” và “lý luận suông” khi nói về nguyên nhân của một chứng bệnh lớn hơn: “bệnh chủ quan”.

Hồ Chí Minh với tư duy biện chứng và kinh nghiệm chính trị sâu sắc đã chỉ ra những biểu hiện của bệnh coi khinh lý luận trong một bộ phận cán bộ, đảng viên: “Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều. Họ quên rằng: kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi”.

Như vậy, với Hồ Chí Minh, biểu hiện của bệnh “khinh lý luận” là tình trạng người cán bộ, đảng viên coi trọng kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn dẫn tới tuyệt đối hóa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố duy nhất quyết định thành công, từ đó sa vào “chủ nghĩa kinh nghiệm”. Người chỉ rõ, “trong Đảng ta hiện nay còn có nhiều người chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào công tác sự vụ, không nhận thấy sự quan trọng của lý luận... đã áp dụng một số kinh nghiệm một cách thiếu sáng tạo, không có kết quả”; và khi mắc chủ nghĩa kinh nghiệm thì “chỉ bo bo giữ lấy những kinh nghiệm lẻ tẻ... cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng”.

Ở một phương diện khác, Hồ Chí Minh cho rằng “khinh lý luận” thể hiện ở việc nhận thức không đúng về lý luận nên không hiểu thực chất của lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận mà không hiểu được bản chất những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh dẫn tới tình trạng nhiều cán bộ, đảng viên chủ quan, trở nên “giáo điều” trong công tác, trong hoạt động cách mạng của mình. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế, không phù hợp với thực tiễn.

Người chỉ ra các biểu hiện nhận thức không đúng về lý luận: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ... Có những người xem được sách, xem nhiều sách. Siêng xem sách và xem nhiều sách là một việc đáng quý. Nhưng thế không phải đã là biết lý luận. Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”. Theo Hồ Chí Minh, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng là giáo điều.

Đồng thời, Người cũng chỉ rõ do khinh lý luận nên dẫn tới tình trạng nhiều cán bộ, đảng viên xem nhẹ, lười học lý luận. “Những người chỉ trọng kinh nghiệm mà khinh lý luận thì không hiểu rõ toàn bộ quá trình khách quan, thiếu phương châm vững chắc, chỉ biết một mà không biết mười. Nếu những người ấy lãnh đạo cách mạng thì sẽ thất bại”; và “Vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”. Người mạnh mẽ phê bình những người “thiếu tin tưởng đối với sự cần thiết phải học tập lý luận, học tập kinh nghiệm của các nước anh em” và yêu cầu “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận”.

Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã không ngừng học hỏi, làm giàu tri thức, vượt lên lối tư duy kinh nghiệm, cảm tính để đến với lý luận khoa học; gắn lý luận với thực tiễn cách mạng. Người là tấm gương sáng, sâu sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn để đề ra quyết sách và lãnh đạo, chỉ đạo quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ của cách mạng. Sự gắn bó giữa lý luận với thực tiễn là đặc điểm nổi bật trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh, thể hiện rõ trong tư tưởng và tấm gương thực hành của Người.

Th.s Nguyễn Tấn Tài – Giảng viên Tổ LLCT