TUYẾN ĐƯỜNG SẮT ĐÀ NẴNG – HỘI AN TRONG LỊCH SỬ
Nguyễn Thanh Sinh tổng hợp
1. Từ giữa thế kỷ XVI, Hội An sớm trở thành một trong những thương cảng sầm uất của xứ Đàng Trong, thu hút thương thuyền từ Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc, Siam,… đến buôn bán. Lúc này, thuyền buôn muốn vào cảng thị Hội An thường đi bằng hai con đường: 1/ Nếu thuyền đến từ phương Nam sẽ vào Đại Chiêm Hải Khẩu để đến Hội An; 2/ Nếu thuyền đến từ phương Bắc thì dùng ngõ Đà Nẵng đi dọc theo sông Cổ Cò để đến Hội An có thể tiện hơn vì khỏi phải đi vòng bán đảo Sơn Trà sẽ rút ngắn được lộ trình mà lại an toàn sóng gió.
Cuối thế kỷ XVII, có thể được xem là giai đoạn cực thịnh của cảng thị Hội An. Lúc này, hàng hóa khắp nơi ồ ạt đổ về và Hội An trở thành một vựa hàng khổng lồ của cả khu vực. Ngày 18-8-1695, thương nhân người Anh là Thomas Bowyear đến Hội An, ông thấy: “Các thuyền mua (đem đến Đường Trong) từ Quảng-đông: tiền đúc được lãi rất nhiều, cũng như hàng tơ lụa hoa các kiểu, lĩnh lụa, đồ gốm Trung Quốc, chè, kẽm, thủy ngân, nhân sâm, long não và các vị thuốc khác; từ Xiêm: lá trầu không, gỗ đỏ (dùng để nhuộm), sơn, xà cừ, ngà voi, thiếc, chì, gạo; từ Camphuchia: thư hoàng (dùng làm thuốc vẽ), cánh kiến trắng, sa nhân, sáp, sơn, xà cừ, gỗ đỏ, nhựa thông, da trâu, da và gân hươu, ngà voi, sừng tê v.v…; từ Ba-ta-vi-a: bạc, bạch đàn, trầu không, vải cát bá đỏ và trắng, thuốc màu đỏ; từ Ma-ni: bạc, diêm sinh, gỗ đỏ, vỏ sò, thuốc hút, sáp, gân hươu. Còn “Đường Trong” bán ra: vàng, sắt, tơ và hàng dệt như lĩnh, lụa… kỳ nam, trầm hương, đường, đường phèn,… yến sào, hạt tiêu, bông …”[1].
2. Trong khi cảng thị Hội An phát triển thịnh vượng thì Đà Nẵng vẫn còn là một mảnh đất nằm bên vịnh biển, mà địa hình nơi đây đã tạo ra một ưu thế rất đắc dụng như sách Đại Nam nhất thống chí đã chép: “Ấy là chỗ nước biển chứa làm một vũng lớn, nước sâu lại rộng, ngoài có các núi ngăn che, không có ba đào ồ ạt, những ghe tàu qua lại gặp gió lớn hay đậu nghỉ nơi đây”[2]. Ghi chú của Le Floch de la Carrière dưới bản đồ vẽ năm 1787 cũng cho rằng “vịnh Đà Nẵng có thể tiếp nhận những tàu buôn lớn nhất và là hải cảng rất thuận lợi”.
Phải đến năm 1835, khi vua Minh Mạng có dụ: “Tàu Tây chỉ được đậu tại cửa Hàn, còn các cửa biển khác không được tới buôn bán” thì Đà Nẵng lúc này mới trở thành một thương cảng lớn, tiếp đón tàu thuyền của các quốc gia trên thế giới đến neo đậu và trao đổi hàng hóa. Vì vậy, đã thúc đẩy các ngành sửa chữa tàu thuyền, sơ chế nông lâm hải sản, dịch vụ thương mại,... ở Đà Nẵng phát triển.
Đến ngày 27 tháng 8 năm Mậu Tý (tức ngày 3-10-1888), vua Đồng Khánh ký một đạo dụ ghi rõ: “Các lãnh thổ thuộc các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền sở hữu cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó”. Chính đạo dụ đó, triều Nguyễn đã tước bỏ mọi quyền hành của mình ngay trên một mảnh đất kề cận kinh đô, và giờ đây Đà Nẵng trở thành “nhượng địa” (concession) của thực dân Pháp. Sau đó, thực dân Pháp tách Đà Nẵng khỏi Quảng Nam và đổi tên thành Tourane, chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương. Tourane được người Pháp kiến thiết, xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu phương Tây. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, các ngành nghề sản xuất và kinh doanh được hình thành và phát triển như: sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu như: chè, lương thực, thực phẩm, nước ngọt, nước đá, rượu, nước mắm, cá khô; sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ,... Cùng với những thành phố chịu sự cai quản của người Pháp như: Sài Gòn, Hải Phòng, thì Tourane trở thành một trong những trung tâm thương mại quan trọng của cả nước
3. Cho đến lúc này, vai trò của cảng thị Hội An vẫn còn khá quan trọng. Đây là nơi tập trung các nguồn hàng từ miền xuôi đến, từ miền ngược đổ về, từ bắc vào nam, từ các quốc gia trên thế giới hội tụ về và cũng là nơi xuất đi một khối lượng hàng hóa lớn. “Những hóa-vật được sản xuất từ các phủ Thăng-hoa, Điện-bàn, Qui-nhân, Quảng-nghĩa, Bình-khang cùng dinh-sở Nha-trang, chỗ thì người ta chuyên-chở hàng-hóa bằng thuyền theo đường thủy, hay chở bằng ngựa theo đường bộ, đều đổ xô dồn về phố cổ Hội-an cả. Ở nơi đây, vì các khách buôn Trung Quốc đều tới mua hàng đưa về Tàu, nên buổi trước hàng hóa rất nhiều, dẫu có 100 chiếc thuyền lớn chuyên chở hàng hóa trong một lúc cũng không thể chở hết được”[3]. Như vậy, Hội An như một điểm dừng chân, một nơi tập kết và trung chuyển hàng hóa mà Đà Nẵng là cái cổng để thương thuyền vào ra.
Con đường vận chuyển thuận tiện nhất giữa Đà Nẵng và Hội An lúc bấy giờ vẫn là sông Cổ Cò. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: “Lộ Cảnh Giang (sông Cổ Cò) - Ở vùng cuối hai huyện Diên Phước và Hòa Vang. Sông này từ xã Thanh Châu chảy ra phía Bắc, đến phía Tây núi Tam Thai (tức Ngũ Hành Sơn hay Non Nước) nhập với sông Cẩm Lệ. Nay nước sông cạn, ghe thuyền đi không thông”[4]. Còn theo phúc trình hàng năm của Phòng Tư vấn Hổn hợp Thương mãi và Canh nông Trung kỳ trước Hội đồng Tối cao Đông Dương vào tháng 11 năm 1902, thì mãi cho đến năm 1891, người ta vẫn còn đi lại dễ dàng trên sông Cổ Cò nối liền giữa Đà Nẵng và Hội An bằng xà-lúp.
Nhưng sau năm 1891, con đường này ngày càng gặp nhiều trở ngại vì những trận lụt lớn đã làm cho sông Cổ Cò bị vùi lấp đáng kể, mà người Pháp lúc này lại chưa có những phương tiện hiện đại để nạo vét. Vì vậy, ghe thuyền ra vào giữa Đà Nẵng với Hội An không còn đi lại dễ dàng như trước. Trong khi đó, nhu cầu vận chuyển hàng hóa từ Hội An ra Đà Nẵng để xuất khẩu và đưa hàng hóa nhập khẩu từ Đà Nẵng vào cảng thị Hội An để phân phối đi các nơi khác trong vùng và đến các cảng thị trên thế giới vẫn còn rất cần thiết, mà người Pháp thì mới chân ướt chân ráo đặt chân đến làm ăn ở Đà Nẵng, một phần họ chưa có cơ sở, hoặc cơ sở của họ chưa được hoàn chỉnh, manh mối làm ăn lại chưa quen biết, vả lại chưa thông thuộc đường đi lối lại nên họ rất cần đến sự hỗ trợ của các thương nhân người Hoa ở Hội An. Chính vì nhu cầu khai thác kinh tế buộc người Pháp phải tìm một con đường khác, nên con đường sắt kiểu Decauville[5] nối liền giữa hai địa phương là Đà Nẵng và Hội An mà người Pháp lúc bấy giờ thường gọi là Tramway de l' Ilôt de l'Observatoire à Faifoo được hình thành.
Trước đó, vào năm 1902, các doanh nhân người Pháp ở Đà Nẵng như Dérobert, J. Fiard đã đề nghị chính quyền Đông Dương thiết lập một con đường sắt Decouville nối liền Đà Nẵng - Hội An để thay thế cho sông Cổ Cò bị tắt nghẽn. Đề nghị này được Phòng Thương mãi Đà Nẵng ủng hộ và coi đó như là giải pháp thứ hai để cải thiện giao thông giữa hai thành phố này nếu như trường hợp giải pháp nạo vét sông Cổ Cò không thi hành được.
Đến khoảng giữa năm 1904, sau khi không tìm ra ngân sách để nạo vét sông Cổ Cò đã bị bồi lấp, chính quyền Đông Dương cho thực hiện tuyến đường sắt Decouville. Lúc đầu, tuyến đường sắt này dùng để chở hàng hóa từ Đà Nẵng đến Hội An và ngược lại. Ngày 9-10-1905, tuyến đường sắt Đà Nẵng – Hội An chính thức được mở ra cho công chúng sử dụng. Sở dĩ người Pháp gọi là Tramway de l'Ilôt de l'Observatoire à Faifoo, vì con đường này phát xúất từ đảo Cô (l'Ilôt de l'Observatoire)[6] ở bán đảo Sơn Trà, chạy men theo hữu ngạn sông Hàn, băng qua vùng đất cát ở khu vực Ngũ Hành Sơn để vào đến Hội An. Trên đoạn đường này, người Pháp đã đặt 6 nhà ga là: Observatoire, Tiên Sa, Concession Guérin, Cổ Mân, Tourane - Mỹ Khê, Tourane - Fleuve. Mỗi ngày có ba chuyến đi về, gồm hai chuyến buổi sáng và một chuyến buổi chiều.
Đến năm 1916, một phần vì tuyến đường này băng qua vùng đất cát dài và rộng nên thường bị cát lấp, người Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc bảo trì tuyến đường này. Phần khác, số lượng hành khách và hàng hóa vận chuyển ngày một ít đi bởi Hội An mất đi vai trò thương cảng quốc tế của mình nên việc khai thác trên tuyết đường sắt này không còn có lợi nữa. Thêm vào đó, trận bão lớn năm 1916 đổ bộ vào Đà Nẵng, đã phá hỏng một số tuyến của đường ray nên người Pháp cho dẹp bỏ. Tất cả đầu máy, toa tàu, đường sắt cùng các thứ linh tinh khác được đem phát mãi vào năm 1917[7]. Và đó cũng chính là thời điểm hoàn toàn chấm dứt của tuyến đường sắt Đà Nẵng - Hội An trong lịch sử.
4. Như ta đã biết, tuyến đường sắt giữa Đà Nẵng – Hội An được người Pháp được lập ra nhằm thay thế sông Cổ Cò trong việc vận chuyển hàng hóa qua lại giữa Đà Nẵng và Hội An. Vì buổi đầu làm chủ nhượng địa Đà Nẵng, người Pháp rất cần đến sự hợp tác của người Hoa ở Hội An trong vai trò tập trung nguồn hàng xuất khẩu và phân phối hàng nhập khẩu, còn việc chuyên chở hành khách chỉ là việc phụ. Thời gian sau, người Pháp dần ổn định, họ đã xây dựng được cơ sở vững vàng ở Đà Nẵng, thông thạo đường đi nước bước, nắm rõ tài nguyên, nên dần dần vai trò trung gian của thương nhân Trung Hoa ở Hội An không còn cần thiết như trước nữa. Mặt khác, thành phố Đà Nẵng dưới bàn tay người Pháp, họ đã xây dựng và chỉnh trang đô thị, làm cho Đà Nẵng có những nét mới hấp dẫn dân tứ xứ, trong đó, người Hoa là tầng lớp nhạy bén nhất và chính họ đã giúp chuyển Hội An ra Đà Nẵng! Con đường Tramway, hậu thân của sông Cổ Cò, trở thành mất tác dụng, không còn cần thiết nữa.
Cái nền của đường sắt Đà Nẵng – Hội An về sau trở thành một hương lộ. Trước 1975, khi quân đội Đại Hàn trú đóng ở Đà Nẵng, họ đã xây dựng một đường tráng nhựa theo tiêu chuẩn mới trên nền của tuyến đường sắt xưa, giúp việc đi lại giữa Đà Nẵng - Hội An nhanh chóng và tiện lợi hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí. Nxb Thuận Hóa, Huế, tập 2, 1994.
2.Lê Quí Đôn. Phủ biên tạp lục (Lê Xuân Giáo dịch). Tủ sách cổ văn - Ủy ban dịch thuật, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản, tập 2, 1973.
3.Võ Văn Dật. Lịch sử Đà Nẵng (1306-1975). Nxb Sao Việt, Hoa Kỳ, 2007.
4.Thành Thế Vỹ. Ngoại thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX. Nxb Sử học, Hà Nội, 1961.
[1] Thành Thế Vỹ. Ngoại thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX. Nxb Sử học, Hà Nội, 1961, tr.227.
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí. Nxb Thuận Hóa, Huế, tập 2, 1994.
[3] Lê Quí Đôn. Phủ biên tạp lục (Lê Xuân Giáo dịch). Tủ sách cổ văn - Ủy ban dịch thuật, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản, tập 2, 1973, tr.72-73.
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí. Nxb Thuận Hóa, Huế, tập 2, 1994.
[5] Paul Découville (1846-1922) là một kỹ sư cầu đường người Pháp, đã phát minh ra một phương pháp đặt đường sắt dễ tháo ráp mang tên ông ta. Về mặt kỹ thuật, đó là loại đường sắt Découville, còn thông thường người Pháp gọi là Tramway.
[6] Tức cảng Tiên Sa hiện nay.
[7] Võ Văn Dật. Lịch sử Đà Nẵng (1306-1975). Nxb Sao Việt, Hoa Kỳ, 2007, tr.333..