Nguyễn Thị Phương Thảo
Nhật Bản hiện đang đối mặt với một trong những thách thức lớn nhất về dân số trên thế giới: tình trạng già hóa dân số và sự suy giảm lực lượng lao động. Đây là những vấn đề nghiêm trọng có thể ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế và xã hội của quốc gia này. Nhật Bản đang thiếu nguồn cung cấp lực lượng lao động trầm trọng. Số trẻ em chào đời không đạt tới con số 1 triệu trẻ và tình hình này đã diễn ra liên tiếp trong nhiều năm. Năm 2017 sinh 948,566 trẻ; năm 2018 sinh 927,255 trẻ, năm 2023 sinh 813,751 trẻ ) [Dân số. 2024]. Việc suy giảm dân số ở Nhật Bản có một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn từ 1931 đến 1945, Nhật Bản bị cuốn vào hai cuộc chiến tranh lớn: Chiến tranh Trung – Nhật lần thứ hai (1937–1945) và Chiến tranh thế giới thứ hai. Để phục vụ cho mục tiêu mở rộng lãnh thổ và củng cố tiềm lực chiến tranh, chính phủ Nhật Bản đã thúc đẩy chính sách gia tăng dân số nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho cả mặt trận quân sự lẫn hậu phương sản xuất. Vào tháng 1 năm 1941, Nội các Nhật Bản chính thức ban hành Chính sách Dân số quốc gia, đề ra mục tiêu dài hạn là nâng tổng dân số nội địa lên 100 triệu người vào năm 1960. Chính sách này tập trung vào việc khuyến khích sinh đẻ và giảm tỷ lệ tử vong, coi đây là yếu tố thiết yếu để duy trì sức mạnh quốc gia trong thời chiến.
Tuy nhiên, thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai và việc Nhật Bản buộc phải từ bỏ các thuộc địa đã tạo ra những hệ quả dân số nghiêm trọng. Sự trở về ồ ạt của hàng triệu cựu binh và dân thường từng sinh sống tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng, cùng với sự gián đoạn trong các chính sách kiểm soát dân số thời chiến, đã dẫn đến hiện tượng "bùng nổ dân số" (baby boom) giai đoạn đầu hậu chiến. Cuộc khủng hoảng này thể hiện rõ qua tỷ suất sinh năm 1947 lên đến 4,54 – đánh dấu đỉnh điểm của làn sóng sinh sản hậu chiến đầu tiên tại Nhật Bản. Đến năm 1949, dân số Nhật Bản ước tính khoảng 83 triệu người (không phải 270 triệu như một số nguồn nhầm lẫn), với tỷ suất sinh vẫn ở mức cao là 4,32. Sự gia tăng dân số đột ngột này đã đặt ra những thách thức to lớn về lương thực, nhà ở và việc làm cho chính phủ Nhật Bản trong bối cảnh nền kinh tế quốc gia vẫn đang trong quá trình phục hồi sau chiến tranh.
Thứ hai, sau Chiến tranh thế giới 2, Nhật Bản đã nhanh chóng chuyển từ chính sách khuyến sinh sang kiểm soát sinh sản trong bối cảnh quốc gia đối mặt với áp lực dân số gia tăng, kinh tế trì trệ và tài nguyên khan hiếm. Năm 1948, Đạo luật Bảo vệ Ưu sinh (Eugenic Protection Law) được ban hành, hợp pháp hóa việc phá thai trong những trường hợp nhất định, đánh dấu bước ngoặt trong chính sách dân số quốc gia. Từ thập niên 1950 trở đi, tỷ lệ sinh bắt đầu có xu hướng giảm rõ rệt, phản ánh sự thay đổi trong nhận thức xã hội về quy mô gia đình và vai trò của sinh sản trong đời sống hiện đại.
Đặc biệt, việc phổ cập khái niệm kế hoạch hóa gia đình được thúc đẩy mạnh mẽ thông qua sự tham gia của các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp. Dưới sự chỉ đạo chuyên môn của Viện Nghiên cứu Vấn đề Dân số, các chương trình truyền thông, đào tạo và cung cấp phương tiện tránh thai được triển khai ở cấp cơ sở, với sự tham gia trực tiếp của nhân viên các công ty và tổ chức cộng đồng. Nhờ những nỗ lực này, tỷ suất sinh tại Nhật Bản đã giảm mạnh từ mức 2,0 vào năm 1960 xuống còn 1,57 vào năm 1966. Xu hướng suy giảm này tiếp tục duy trì trong các thập niên tiếp theo, khi Nhật Bản bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao và quá trình hiện đại hóa sâu rộng.
Từ cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, tỷ suất sinh của Nhật Bản ổn định ở mức rất thấp, dao động trong khoảng 1,3 – 1,4, và đến năm 2023 đã giảm xuống chỉ còn 1,2 – mức thấp nhất trong lịch sử hiện đại, tương đương mức giảm 5,8% so với năm trước [Viện Nghiên cứu Nhật Bản, 2023]. Diễn biến này phản ánh một xu hướng dân số già hóa nhanh chóng và tỷ lệ sinh thấp kéo dài, đặt ra nhiều thách thức về nhân lực, an sinh xã hội và phát triển bền vững trong tương lai.
Để có thể rõ hơn minh họa sơ đồ từ hình 1 để thấy sự sụt giảm tỉ lệ sinh của Nhật Bản từ năm 1947 – 2023
Hình 1: Thống kê tỷ suất sinh và số sinh của Nhật Bản từ năm 1947 – 2023
Nguồn: E- Stat. 2023. https://www.e-stat.go.jp/dbview?sid=0003411595
Ngoài chính sách về dân số và kế hoạch hóa gia đình, còn có các nguyên nhân khác dẫn đến tỷ lệ sinh thấp như: không kết hôn, kết hôn muộn, sinh con muộn. Chính phủ Nhật Bản ban đầu đã xem nhẹ vấn đề suy giảm dân số, dẫn đến sự suy giảm dân số ngày càng nghiêm trọng hơn. Từ năm 1970, xã hội Nhật Bản hình thành xã hội công ty; nam giới tham gia vào công việc của công ty bởi hình thức nhân viên chính thức và gắn bó với công ty. Thời gian này, đặc trưng hình mẫu gia đình của Nhật Bản theo kiểu gia đình có nam giới thuộc về công ty, nữ giới bị trói buộc và gánh vác công việc của gia đình. Điều này tạo cảm giác cô đơn và trách nhiệm cho những phụ nữ đã lập gia đình. Sau đó, phụ nữ tham gia vào công việc ngoài gia đình và độc lập hơn về kinh tế dẫn đến ý thức kết hôn của nữ giới thay đổi. Lúc này, nữ giới có khuynh hướng lựa chọn không kết hôn tăng lên đáng kể. Từ năm 2000, môi trường làm việc khắc nghiệt, tỷ lệ tuyển dụng không ổn định càng khiến tỷ lệ không kết hôn ở giới trẻ gia tăng kéo theo tỷ lệ sinh giảm [Imai Jun, 2017: 4; Kinoshita Takeo, 2017: 9]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Viện nghiên cứu Nhật Bản. (2023). 2023年の出生数は▲5.8%減、出生率は1.20前後に低下 (Số lượng sinh vào năm 2023 sẽ giảm 5,8% và tỷ lệ sinh giảm xuống khoảng 1,20). Tru cập 10/6/2024, từ https://www.jri.co.jp/page.jsp?id=107273#:~:text=No.2023%2D084-,2023%E5%B9%B4%E3%81%AE%E5%87%BA%E7%94%9F%E6%95%B0%E3%81%AF%E2%96%B25.8%EF%BC%85%E6%B8%9B,1.20%E5%89%8D%E5%BE%8C%E3%81%AB%E4%BD%8E%E4%B8%8B%E3%81%B8&text=2023%E5%B9%B4%E3%81%AE%E5%87%BA%E7%94%9F%E6%95%B0%EF%BC%88%E6%97%A5%E6%9C%AC%E4%BA%BA%EF%BC%89%E3%81%AF%E3%80%81%E5%89%8D%E5%B9%B4,%E6%B8%9B%E5%B0%91%E7%8E%87%E3%81%A8%E3%81%AA%E3%82%8B%E5%85%AC%E7%AE%97%E3%80%82
Imai Jun. (2017). 日本労働社会学会. (2017).人口減少下の労働問題 - 日本労働社会学会年報〈第 28 号. 東京:日本労 働社会学会. (Mục đích của kế hoạch tập hợp bài viết trong Hiệp hội lao động xã hội Nhật Bản. (2017). Báo cáo thường niên Vấn đề lao động dưới sự suy giảm dân số). Tokyo: Hiệp hội lao động xã hội Nhật Bản. No.28
Kinoshita Takeo. (2017). 日本労働社会学 会. (2017).人口減少下の労働問題 - 日本労働社会学会年報〈第 28 号. 東京:日本 労働社会学会. (Vấn đề suy giảm dân số và xã hội công ty trong Hiệp hội lao động xã hội Nhật Bản. (2017). Báo cáo thường niên vấn đề lao động dưới sự suy giảm dân số). Tokyo: Hiệp hội lao động xã hội Nhật Bản. No.28