star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

Diễn ngôn nam quyền về tính dục trong văn học Việt Nam trước 1975 (phần 1)


Diễn ngôn nam quyền về tính dục trong văn học Việt Nam trước 1975 (phần 1)

Th.S Bùi Thị Kim Phượng

Khoa KHXH&NV, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam

aFaculty of Humanities and Social Science, Duy Tan University, 55000, Danang, Vietnam

Tóm tắt

Trong quan niệm truyền thống, tính dục là một chủ đề bị cấm kị vì có dính đến chuyện phàm tục, thiếu tao nhã; chuyện thân xác, nhục dục hầu như bị né tránh. Quá trình hiện đại hóa của văn học cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã xóa bỏ quan niệm cũ về con người, hình thành quan niệm con người cá nhân, từ đó làm thay đổi đề tài văn học trong đó có đó có đề tài tính dục. Tuy nhiên nhìn ở góc độ nào chủ đề rất nhân văn và tự nhiên này đang xem xét dưới góc độ đạo đức, góc độ ý thức hệ, trở thành diễn ngôn nam quyền về tính dục.

Từ khóa: diễn ngôn; tính dục; văn học Việt Nam; nhân văn; đạo đức

Abstract

In the traditional view point, sexuality is a taboo topicbecause it is related to something that’s philistine and not elegant; sex is almost avoided mentioning. The modernization process of literature in the late nineteenth century and early twentieth century removed the old concept of man, forming a concept of human personalities. As a result, this made change of literature including sexual one. However, this natural and human topic is being  considered in terms of to some extend, becoming a discourse of men’s right about sexuality.

Keys: discourse, sex, literature of  Vietnam, humanity, morality

Đặt vấn đề

Khoảng từ thập niên 60 của thế kỷ trước, chủ đề tính dục nổi lên mạnh mẽ trên thế giới ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác nhau trong đó có văn học. Thực tế, tính dục là mối quan tâm muôn thuở của loài người bởi lẽ nó là thứ cảm giác tồn tại từ trong bản thể. Cảm giác xấu hổ của Adam và Eva sau khi ăn trái cấm là nỗi xấu hổ tính dục, cảm giác giới tính và bản sắc. Nhưng nỗi xấu hổ ấy ám ảnh loài người và từ đây con người không thể thoát khỏi cái khát khao sâu thẳm từ vô thức vì mỗi cá nhân là một bản thể tự nhiên. Cách ứng xử với nó là biểu hiện của trình độ tự ý thức của mỗi con người. Tuy nhiên, trong văn học truyền thống Việt Nam đây là vấn đề nhạy cảm nếu không muốn nói là cấm kỵ, vần đề tưởng như hết sức tự nhiên này bị quy chiếu dưới ý thức hệ nho giáo, dưới diễn ngôn nam quyền nên chưa thấy hết vẻ đẹp tự nhiên cũng như chưa thấu hết bản chất nhân văn của nó.

1.Tính dục dưới cái nhìn đạo đức truyền thống

Nho giáo mà khởi nguồn là Khổng giáo qua trình hình thành và phát triển hàng ngàn năm đã trở thành một học thuyết chính trị, một hệ thống đạo đức xã hội, một triết lý sống có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ ở quê hương của nó mà cả ở khu vực Đông Bắc Á rộng lớn. Kể từ khi được đưa vào Việt Nam, nho giáo dần trở thành nền tảng cho hệ tư tưởng chính thống và đóng một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị xã hội và trở thành cơ sở cho các chuẩn mực đạo đức điều tiết hành vi hàng ngày của cá nhân trong xã hội, kể cả trong văn học. Văn học thời phong kiến ở Việt Nam dựa trên nền tảng tư tưởng nho giáo, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố quy định, tác động đến nội dung, tư tưởng, đề tài, chức năng lẫn hình thức thể hiện nên phản ánh một cách rõ nét bản chất của xã hội và con người thời đại. Văn học trung đại quan niệm văn chương là tải đạo, ngôn chí; văn chương là công cụ để truyền bá đạo lý, giáo hóa con người và cũng là thứ để  tu tâm dưỡng tính. Đối với nhà nho, Đạo, Chí, Khí là những điều đặc biệt hệ trọng, cao quý, có ý nghĩa to lớn, sống còn với con người. Văn chương là thứ thực hiện sứ mệnh cao quý và thiêng liêng đó. Cái quan trọng nhất của người quân tử là “lập ngôn” mà lập ngôn bao gồm cả sáng tác văn chương. Vậy nên nếu việc “lập ngôn“ có dính đến những chuyện phàm tục - là nhỏ nhen, tầm thường, thiếu tao nhã do vậy mà chuyện thân xác, nhục dục hầu như bị né tránh.

Chỉ khi chế độ phong kiến xuống dốc, khả năng kiềm tỏa về mặt tư tưởng giảm bớt, ý thức cá tính mới có cơ hội nảy nở từ đó nhà văn bắt đầu ý thức vẻ đẹp hình thể  như một nhu cầu của đời sống và văn chương. Ở một vài cá nhân đã có sự quan tâm rõ rệt đối với những nhu cầu tự nhiên của con người như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…nhưng không nhiều.

 Nguyễn Trãi là con người khá toàn diện, riêng ở lĩnh vực thơ ca, đó là một con người khá phong tình do vậy mà ta không ngạc nhiên khi thấy mảng thơ viết về  thiên nhiên của ông cũng ít nhiều có yếu tố tính dục. Trong bài Tích cảnh thi có rất nhiều từ mang nét nghĩa tả thực nhưng thực ra có bóng dáng sâu xa về sex. Đầy rẫy những ngôn ngữ đậm chất ẩn dụ: cứng-mềm, xuân, hoa hoa-nguyệt nguyệt, cầm đuốc chơi đêm…Nhà nho đạt đạo Nguyễn Trãi dám viết về tính dục và viết thật tinh tế, thật vi diệu, ý nhị. Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhất là những bài thơ như thế này ta thấy Nguyễn Trãi thật người, thật đời và cũng thật tình, chuyện sex với Nguyễn Trãi như một nhu cầu khám phá niềm hạnh phúc trần gian và ông đã thể hiện chuyện ý nhị này thật tế nhị mà sâu sắc.

Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng

Thu đến đêm qua cảm vả mừng

Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt

Khoan khoan những lệ ác tan vầng.

Dịp trúc còn khoe tiết cứng

Rày liễu đã rủ tơ mềm

Lầu hồng có khách cầm xuân ở

Cầm ngọc tay ai dắng dõi thêm.

Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành

Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình

Xuân xanh nỡ phụ cười đầu bạc

Đầu bạc xưa rày có thuở xanh.

Ba bảy mươi nào luống nhọc thân

Được thua đã biết sự phân vân

Chớ cười hiền trước rằng dại

Cầm đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân.

             …

Trong thơ Nguyễn Du, vẻ đẹp thân thể, vấn đề nhục dục cũng được đề cập. Đây là cảnh Kiều tắm:

“Rõ ràng trong ngọc trắng ngà

Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”

Còn đây là cảnh gái giang hồ tiếp khách bốn phương:

“Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh”

Đây là tâm trạng tiếc nuối của Kiều khi sống trong cảnh lầu xanh:

Biết thân đến bước lạc loài

Nhị đào thà bẻ cho người tình chung

Yếu tố phồn thực, sinh thực khí, cảnh ái ân trai gái trong thơ Hồ Xuân Hương càng dày đặc hơn nữa: những gò Bồng Đảo, lạch Đào Nguyên, những hang động…hiện lên đầy sức sống, trong mắt của nữ sĩ, hình thể của “thiếu nữ” như một tuyệt tác của tự nhiên. Nếu như tình dục là chuyện mà văn học truyền thống né tránh thì Hồ Xuân Hương khẳng định mạnh mẽ rằng đó là chuyện con người, không cần phải giấu giếm:

Hiền nhân quân tử ai mà chẳng

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo

Nguyễn Công Trứ, một bậc danh nho thời Nguyễn nhưng nổi tiếng phong tình thì thẳng thừng tuyên bố:

Chơi cho lịch mới là chơi

Chơi cho đài các cho người biết tay

Tài tình dĩ mấy xưa nay ?

Với quan niệm thẩm mỹ khắt khe, những nhà văn, nhà thơ theo học cửa Khổng sân Trình không chú trọng yếu tố tả thực. Nếu nói họ thường dùng các điển tích, cách chơi chữ hoặc dùng từ đa nghĩa. Họ hóa trang, lấp lửng để tránh bị phê phán. Suy cho cùng chủ đề tính dục trong văn học truyền thống sở dĩ bị cấm đoán hoặc khắt khe là vì nó được nhìn nhận dưới góc độ đạo đức. Những gì trái với lẽ thường, trái với quy chuẩn của xã hội phong kiến bị cho là dơ, là xấu, là không ra gì. Quan niệm này đã có sự thay đổi trong văn học thế kỷ XX.

(còn nữa)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Tuấn Anh (2008), “Mỹ học tính dục và cuộc phiêu lưu giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật”, http://www.hnv.vn
  2. Yến Anh (2007), “Sex cổ xưa như trái đất”,http://vietbao.vn
  3. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975-1995- Những đổi mới cơ bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.
  4. Trần Thiện Khanh (2010), «Quy ước diễn ngôn văn chương giai đoạn 1986-1991 », http://www.tapchisonghuong.com.vn
  5. M. Foucault (1978),The History of Sexuality ( Lịch sử tính dục) (), New York: Pantheon Books,105
  6. Nhiều tác giả (2009), Nghiên cứu văn học Việt Nam-Những khả năng và thách thức- NXB Thế giới, Hà Nội.
  7. Trần văn Toàn, (2007), “Vấn đề tình dục trong Văn học Việt Nam từ và qua truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao” my.opera.com.
  8. Trần Văn Toàn (2010), «Giới tính và nghiên cứu văn học-trường hợp Đoạn tuyệt của Nhất Linh »
  9. Nguyễn Văn Trung (2002) Ca tụng thân xác, NXB Văn nghệ, Hà Nội.
  10. Liễu Trương (2011), Phân tâm học và phê bình văn học, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

Th.S Bùi Thị Kim Phượng

Khoa KHXH&NV, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam

aFaculty of Humanities and Social Science, Duy Tan University, 55000, Danang, Vietnam