Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm, bối cảnh, tình hình cách mạng nước ta, thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Khẳng định phương hướng, con đường tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của cách mạng Việt Nam là theo con đường chung: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội” như chủ nghĩa Mác - Lênin đề ra. Đó là con đường đã được Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; và Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ ra: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Con đường đó tất yếu sẽ trải qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những dấu ấn, đặc trưng của cách mạng Việt Nam.
Thừa nhận tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng làm rõ đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hộikhông phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”; “một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”; “là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”.
Thừa nhận ở Việt Nam có một thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng bổ sung, xác định nội dung mới: “quá độ lên chủ nghĩa xã hộibỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Lựa chọn hình thức quá độ gián tiếp, nhưng Đảng có bước phát triển mới về nhận thức là không bỏ qua hoàn toàn chủ nghĩa tư bản với tính cách là một hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa tư bản, mà kế thừa có chọn lọc những thành tựu, trước hết là về khoa học và công nghệ nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản, chỉ bỏ qua chủ nghĩa tư bản với tính cách là một chế độ chính trị.
Thừa nhận định tính phổ quát về kinh tế, chính trị, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như chủ nghĩa Mác - Lênin xác định, nhưng Đảng ta lại tiến xa hơn, cụ thể hóa, xác lập nên các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể ở những chặng đường khác nhau của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau năm 1975, ở “chặng đường đầu tiên” quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội IV xác định phương hướng chung: “nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng… mà cách mạng kỹ thuật là then chốt”; công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Nhờ đó, tạo điều kiện cho Đại hội VI xác định “mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Với nhận thức ban đầu đó, trên cơ sở đánh giá thành tựu, hạn chế của hơn 15 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, cùng sự nhận thức rõ hơn về tính chất đặc điểm của thời kỳ quá độ, tại Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta đã xác định: “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”; đồng thời chỉ ra: “Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”.
Đến Đại hội VIII (1996), Đảng ta xác định: “thế và lực của đất nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng… tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Kể từ năm 1996 đến năm 2020, khi nước ta chuyển sang “thời kỳ phát triển mới”, trong mục tiêu tổng quát của các đại hội thời kỳ này (Đại hội VIII đến Đại hội XI), cùng với việc phấn đấu thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế, chính trị - xã hội, đối ngoại, Đảng ta luôn điều chỉnh và tiến tới xác định mục tiêu “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, nhằm “tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
Với cột mốc về thời gian bắt đầu từ năm 2020, Đảng ta đã đề ra: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hộivới kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Do vậy, mục tiêu cụ thể “để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau” của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay chính là: “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, như Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định, và Đại hội XIII tiếp tục bổ sung, cụ thể hóa rõ hơn, đó là: “Phấn đấu đến năm 2045, Việt Nam trở thành một nước phát triển, hiện đại, có thu nhập cao.
Thừa nhận những mô hình cơ bản về xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng bổ sung, tiến tới xác lập ngày càng đầy đủ, hoàn thiện về thể chế kinh tế, mô hình nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra những mô hình khái lược về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước có trình độ phát triển và xuất phát điểm khác nhau trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo, bổ sung, phát triển phù hợp đặc điểm chung và tình hình cụ thể ở mỗi chặng đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đúc kết những mục tiêu, mô hình đã định ra và xây dựng ở chặng đường đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh 1991 do Đại hội VII đã xác định 6 đặc trưng về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Tổng kết thành tựu trong quá trình xây dựng đất nước trong “thời kỳ phát triển mới”, đồng thời định hướng cho “giai đoạn sau” đến giữa thế kỷ XXI, Văn kiện Đại hội X (2006) và Cương lĩnh (Bổ sung phát triển năm 2011) của Đại hội XI đã bổ sung toàn diện, hoàn thiện hơn thành 8 đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ra xây dựng là: “một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Trong đó, đặc trưng bao trùm, tổng quát là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thể chế kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng ta tập trung xây dựng, từng bước bổ sung, hoàn thiện. Nếu như từ Đại hội VI (1991) đến Đại hội VII, Đảng khởi thảo và tiến tới xác định trong Cương lĩnh 1991: “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” là đặc trưng cơ bản của thể chế kinh tế ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì đến Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội XII đã thống nhất xác định: “Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Đến Đại hội XIII (2021) tiếp tục khẳng định và thống nhất định hướng: “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta tập trung xây dựng cũng liên tục được nhận thức, bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội. Từ khái niệm “dân chủ”, “hệ thống chính trị” xác lập tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VI (1989), tiếp đến khái niệm “Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” do Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) nêu lên, sau là khái niệm: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” được nêu lên trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), và Đại hội XIII tiếp tục xác định… là những bước phát triển lớn trong nhận thức về mô hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XIII của Đảng là một cột mốc quan trọng trong lịch sử Đảng, đánh dấu cả một quá trình hình thành, bổ sung, phát triển cũng như đúc kết những vấn đề lý luận cơ bản, toàn diện về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Đảng ta trung thành và vận dụng sáng tạo không ngừng, đem lại nhưng tư duy, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đồng thời, mở ra một thời kỳ phát triển mới của dân tộc Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội./.
Th.s Trịnh Đình thanh – Giảng viên Bộ môn LLCT