Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta từ trước tới nay luôn nhất quán là nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, “kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” và chủ trương “không tham gia liền minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. Tuy nhiên, gần đây trên thế giới hình thành các liên minh nhóm nước này chống lại nước khác, điển hình như vai trò liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương – NATO, Mỹ và phương Tây trong xung đột Nga – Ucraine hiện nay, nên các thế lực thù địch ra sức công kích chính sách quốc phòng “bốn không” của Đảng, Nhà nước ta. Họ cho rằng, chính sách quốc phòng “bốn không” nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam là “không phù hợp với thời đại, không có bạn chí cốt, nên dễ bị cô lập khi đất nước có chiến tranh”. Từ đó họ “kiến nghị” với Đảng, Nhà nước ta về những thay đổi trong chính sách quốc phòng bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam. Theo họ lập luận:
Việt Nam nên “liên minh quân sự với các cường quốc kinh tế, quân sự trên thế giới như Mỹ thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc”
Họ cho rằng, trong tranh chấp biển Đông hiện nay nếu “không liên minh quân sự” Việt Nam rất khó bảo vệ chủ quyền trên biển Đông, rồi vấn đề an ninh tổng thể của Việt Nam cũng có thể bị đe dọa, nếu như trường hợp chiến tranh biên giới năm 1979 được lặp lại. Họ lý giải rằng, Việt Nam thực hiện chính sách “bốn không” là không thực tế, vì nền kinh tế, tiềm lực quốc phòng của Việt Nam hiện nay là hạn chế, không theo kip với yêu cầu mới. Do vậy, Việt Nam cần liên minh quân sự với nước lớn có thực lực quân sự, quốc phòng mạnh, như: Mỹ, Nhật hoặc Nga ... thì sẽ được hỗ trợ tối đa về mặt quân sự, kể cả đưa vũ khí trang bị, lực lượng quân đội đến trợ giúp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia. Họ cho rằng chính sách “bốn không” về quốc phòng chẳng những không giữ được lãnh thổ, trước một cuộc chiến nếu nổ ra mà còn có nguy cơ dẫn đến sụp đổ chế độ do Đảng ta lãnh đạo.
Họ cho rằng “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba là tự cô lập mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi”
Khi nói rằng “không liên minh với nước này để chông nước kia” trong sách trắng quốc phòng của Việt Nam, các thế lực thù địch cho rằng một khi đã tuyên bố rõ ràng như vậy, chúng ta sẽ khó kiếm được đồng minh và làm mất đi con bài mặc cả quan trọng của Việt Nam với cả Mỹ và Trung Quốc. Theo họ, không liên minh quân sự là lỗi thời, lạc hậu; là “đường lối sai lầm”, “đối sách nhu nhược”, là “hành động tự trói”, không phù hợp với xu thế của thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cần phải thay đổi. Đảng, Nhà nước ta nên liên minh quân sự, phải liên kết với nước này thì mới kiềm chế, đối phó được với nước kia để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Thực chất đây là âm mưu thâm độc nhằm chống phá đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta, làm cho chúng ta dao động và ngả sang một bên nào đấy để chống lại bên kia.
Nếu Việt Nam vẫn kiên định chính sách quốc phòng “bốn không” thì sẽ chẳng khác nào đường dài nguy hiểm mà đi một mình, không có bạn bè chí cốt, lúc khó khăn ai giúp đỡ; khi chiến tranh xảy ra làm sao giữ được chủ quyền lãnh thổ
Họ cho rằng việc Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” sẽ làm mất đi cơ hội hòa nhập trong toàn cầu hóa hiện nay, mất đi cơ hội để Việt Nam kết bạn với các nước, thậm chí sẽ làm mất đi những người bạn chí cốt đã từng keo sơn gắn bó với Việt Nam trong các cuộc chiến tranh giải phóng trước đây. Từ đó suy diễn rằng chúng ta đã sai lầm khi đưa ra chính sách quốc phòng “bốn không”.
Từ truyền thống dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc; từ những bài học kinh nghiệm trong hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc (1945 – 1975) và chiến tranh biên giới năm 1979; từ những kinh nghiệm lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Chúng ta có thể khẳng định rằng các quan điểm trên là hoàn toàn sai trái, núp sau cái gọi là “kiến nghị với Đảng, Nhà nước ta” là âm mưu thủ đoạn đen tối nhằm chống phá sự nghiêp hòa bình của dân tộc ta, nhân dân ta, chống lại quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta có đầy đủ luận cứ để chứng minh, phê phán các quan điểm sai trái trên của các thế lực thù địch.
Một là, muốn bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc thì phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đem sức ta mà giải phóng cho ta
Bảo vệ đất nước, dân tộc phải trên cơ sở phát huy sức mạnh của toàn dân, với tinh thần yêu nước nồng nàn không chịu khuất phục, Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần yêu nước nó sẽ nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
Chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc là thiêng liêng và tối cao, không thể phó thác hoàn toàn cho bên ngoài, dù đó là một đồng minh cường quốc. Chúng ta không phủ nhận vai trò, tác dụng tích cực của liên minh trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, trong lịch sử cách mạng Việt Nam chúng ta chưa bao giờ liên minh quân sự với cường quốc nào. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, Việt Nam nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước bè bạn, nhưng chúng ta không tham gia khối liên minh quân sự nào của Liên Xô và Đông Âu. Chúng ta tham gia thành lập khối liên minh Việt Nam - Lào - Campuchia (13/3/1951) nhằm tăng cường khối đại đoàn kết ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và tay sai, giành độc lập hoàn toàn, xây dựng đất nước, làm cho nhân dân ba nước được tự do, hạnh phúc và tiến bộ. Đây là liên minh mang tính tự vệ, chính nghĩa trong vai trò như một trong những phương thức bảo vệ Tổ quốc vào thời điểm lúc đó. Xuyên suốt lịch sử quân sự Việt Nam, cho đến nay, không có quan điểm lý luận liên minh quân sự để chống lại nước khác, hoặc như là một giải pháp để bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Ngay trong điều kiện hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược cực kỳ tàn khốc, ác liệt, gian khổ và kéo dài vừa qua, Việt Nam vẫn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, không tham gia liên minh quân sự với cường quốc nào trên thế giới.
Trong điều kiện hòa bình hiện nay, khi mà xu hướng đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc trên thế giới ngày càng chủ đạo thì việc hình thành các liên minh “thần thánh” đều chỉ là ý đồ của các thế lực muốn bá chủ thế giới, các dân tộc nhỏ chỉ là con tốt trên bàn cờ chính trị của các nước lớn. Thực tế lịch sử thế giới từ trước tới nay, nhất là gần đây cho thấy không phải cứ có liên minh với một cường quốc quân sự là có thể bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc của các nước trong liên minh, nhất là các nước nhỏ, như gần đây trường hợp của Philippines, một đồng minh thân cận của Mỹ, khi bị một cương quốc khác đe dọa, xâm phạm chủ quyền trên bãi cạn Scarborough (Hoàng Nham, năm 2012), nhưng siêu cường đồng minh cũng không làm gì trước sự cầu cứu của đồng minh nước nhỏ. Bởi tại điều khoản số 5 của Hiệp ước an ninh Mỹ - Philippines (1951) chỉ xem các cuộc tấn công vũ trang trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán (jurisdiction) của cả hai ở khu vực Thái Bình Dương là mối đe dọa chung đối với an ninh của cả hai và Mỹ có trách nhiệm phải bảo vệ. Mỹ sẽ không có trách nhiệm phải bảo vệ Philippines khi bãi cạn Scarborough bị tấn công. Mặt khác, Mỹ cũng không muốn phải vướng vào một cuộc chiến không đáng có ở Biển Đông.
Do vậy, muốn bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc thì phải nêu cao tính độc lập, tự chủ, không thể ảo tưởng trông chờ vào liên minh. Trong chuyến thăm và làm việc tại Philippines và tham dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định rõ: Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muôn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liệng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”.
Quan điểm xuyên suốt của Việt Nam là phải tự lực, tự cường, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, dựa vào sức mình là chính, trên cơ sở thực lực sức mạnh của quốc gia - dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè và cộng đồng quốc tế, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam không nghiêng hẳn về một bên nào; không đi theo một cường quốc nào, không dựa hẳn vào một cường quốc nào để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc mình.
Hai là, muốn giữ vững chủ quyền, độc lập, bảo vệ lợi ích của quốc gia - dân tộc chúng ta phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân độc lập, tự chủ, tự cường vững mạnh và thực hiện đường lối đối ngoại “đa dạng hóa, đa phương hóa” trong quan hệ quốc tế
Lịch sử chiến tranh của Việt Nam đã khẳng định, chính việc phát huy sức mạnh nội lực, tự lực, tự cường mới là yếu tố quyết định tạo ra nguồn sức mạnh to lổn nhất, vững chắc nhất để bảo vệ Tổ quốc. Thực tế trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược và tay sai trong thế kỷ XX đã khẳng định: nhân dân ta giành được thắng lợi to lớn chính là nhờ thực hiện đường lốì quân sự độc lập, tự chủ, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang.
Ngày nay, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường kết hợp với mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh là bảo đảm vững chắc cho bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc.
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016) của Đảng khẳng định: Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tô" quyết định1.
Chủ động hợp tác về quốc phòng, an ninh là tạo điều kiện củng cố và phát triển quốc phòng, an ninh, để hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Tính đến nay, Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ đối ngoại quốc phòng với trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ; đặt văn phòng tùy viên quân sự tại Liên hợp quốc và 37 quốc gia khác; có 49 quốc gia đặt văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam[1] [2]. Quan hệ quốc phòng của Việt Nam với các nước ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn. Quan hệ hợp tác quốc phòng được nhiều nước đối tác coi là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hợp tác với Việt Nam. Bên cạnh việc coi trọng quan hệ hợp tác về an ninh và quốc phòng với các nước trong khu vực Đông Nam Á (Lào, Campuchia, Thái Lan, Philippines, Singapore...), Việt Nam cũng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng với các nưóc, các khối nước, như Nhật Bản, Australia, Israel, Cuba, Ân Độ, Italy, Liên minh châu Âu (EU),... đặc biệt chú trọng tối quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước lón, có ảnh hưởng chi phối trong khu vực và trên thế giới, như Nga, Trung Quốc và Mỹ.
Như vậy, chủ trương không tham gia liên minh quân sự là đúng đắn và phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay khi hòa bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chủ đạo và chủ trương đối ngoại của Việt Nam là đa dạng hóa, đa phương hóa. Thực hiện chủ trương này là cơ sở để chúng ta tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Ba là, chủ trương không liên minh với nước này để chống nước kia của Đảng ta là đúng đắn đúng, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, phù hợp với quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người trong giai đoạn hiện nay của thời đại
Hiện nay, thế giới bước vào một giai đoạn phát triển mới, như nhận định của Đảng ta: “Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế”[3]. Chính trong bối cảnh ấy mà Việt Nam liên minh quân sự với nước nào, nhất là liên minh với nước lổn, để chống nước khác mới là không thực tế và rất nguy hiểm.
Các thế lực phản động cho rằng, Việt Nam không liên minh quân sự “là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi”. Về vấn đề này, trước hết, cần phải thống nhất về mặt nhận thức: liên minh quân sự không đồng nhất với quan hệ hợp tác quốc tế về quân sự, quốc phòng. Khi tham gia liên minh, các nước sẽ nằm trong một khối quân sự chung, với những mục tiêu cụ thể, dùng các biện pháp quân sự để tranh giành lợi ích, xung đột chông đối thủ chung. Các nước trong liên minh sẽ phải đặt dưới sự chỉ huy, lãnh đạo của một quốc gia, thương là nước lớn và tuân thủ các nguyên tắc của liên minh, cho dù không hoàn toàn phù hợp với mình. Và chính điều này đã tạo ra sự ràng buộc giữa các nước, làm cho mỗi nước không còn độc lập, tự chủ về những vấn đề của đất nước mình.
Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự nhưng chủ động tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh với tất cả các nước trong khu vực, trao đổi thông tin tình báo, hợp tác tuần tra chung biên giới trên bộ, trên biển (Việt Nam - Campuchia, Việt Nam - Thái Lan, Việt Nam - Trung Quốc...); hợp tác chống tội phạm xuyên quốc gia, mua bán người và ma tuý... Hiện nay, Việt Nam đang tham gia vào các sáng kiến nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng - an ninh nội khối như hợp tác công nghiệp quốc phòng ASEAN; sử dụng nguồn lực và khả năng quân đội các nước khu vực trong hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa; xác định các biện pháp khả thi cũng như cơ chế tăng cường hợp tác giữa các tổ chức quốc phòng ASEAN. Trong khuôn khổ hợp tác, hằng năm, Việt Nam tham gia đầy đủ các hội nghị như: Hội nghị người đứng đầu Quân đội ASEAN (ACDFM), Hội nghị Tư lệnh Lục quân ASEAN (ACAMM), Hội nghị Tư lệnh Hải quân ASEAN (ANCM) và Hội nghị Tư lệnh Không quân ASEAN (AACC), Hội nghị không chính thức những người đứng đầu tình báo quốc phòng các nước ASEAN (AMỊM)...
Hoạt động đối ngoại quốc phòng đa phương của Việt Nam đã đóng góp vào giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ các lợi ích quốc gia của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực; góp phần củng cố và duy trì hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho thực hiện nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thông nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, bảo vệ các lợi ích quốc gia của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực; góp phần nâng cao vị thế và uy tín của quân đội ta.
Như vậy, trong điều kiện hòa bình hiện nay, Đảng chủ trương “không liên minh quân sự”, “không liên kết với nước này để chông nước khác” không phải là “tự trói buộc mình”, trái lại, nó có tác dụng “cởi trói” cho chúng ta cả trong tư duy và hành động để ta có thể suy nghĩ và hành động một cách độc lập, sáng tạo và không bị chi phối, áp đặt bởi yếu tố bên ngoài, tức không bị “người khác trói mình”. Đồng thời, nó cũng không gây ra nguy cơ gì trong chính sách bảo vệ chủ quyền biển, đảo đốỉ với Việt Nam như suy nghĩa của một số người, mà ngược lại, còn giúp cho Việt Nam bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc của mình một cách vững chắc hơn. Và dĩ nhiên, một chủ trương đúng đắn và đang phát huy hiệu quả thì tại sao chúng ta phải thay đổi?
Bốn là, việc thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không”, không cản trở quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nưóc và các đối tác, trái lại, chính sự minh bạch, rõ ràng và sòng phẳng về mặt quan điểm này lại là cơ sở cho các quốc gia, các đối tác xem xét, cân nhắc thiết lập mối quan hệ hợp tác bền chặt lâu dài với Việt Nam
Nói như vậy để khẳng định quan điểm “bốn không” của Đảng ta là đúng đắn, sẽ không làm cho nước ta không có bạn bè và dễ bị cô lập trước các tình huống nguy hiểm. Bởi vì, quan điểm “bốn không” trong chính sách quốc phòng không hề mâu thuẫn với chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đốí ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”[4]. Trong thời kỳ chiến tranh trước đây, Việt Nam đã xử lý rất tốt mối quan hệ giữa chính trị, quân sự và ngoại giao; kết hợp “vừa đánh vừa đàm” hết sức uyển chuyển, nhịp nhàng và hiệu quả. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc những kinh nghiệm quý báu đó được đúc kết, vận dụng vào giải quyết quan hệ kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đốỉ ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trên thực tế, Việt Nam thực hiện đúng đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng đã đề ra. Chính điều này đã đem lại lòng tin chiến lược - một nền tảng hết sức quan trọng cho các đối tác, các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Và điều đó cũng đã lý giải tại sao hiện nay Việt Nam có quan hệ đôi tác chiến lược với 17 nước cùng với 13 nước đối tác toàn diện; là nước duy nhất tại khu vực Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nưổc lớn, góp phần định vị vững chắc hơn vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn trong bối cảnh cục diện khu vực, thế giới có nhiều biến đổi; có quan hệ đặc biệt với Lào, quan hệ hợp tác toàn diện với Campuchỉa; xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với những nước có vai trò quan trọng ở các khu vực khác như châu Phi, Mỹ Latinh...
Việt Nam chủ trương chỉnh sách quốc phòng “bốn không” là cơ sở để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Tuy nhiên, tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sỏ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thông nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Việt Nam kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, linh hoạt; chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Cùng với thực thi chính sách quốc phòng “bốn không’’, Việt Nam cũng chủ trương “bôn tránh”: Tránh xung đột về quân sự; Tránh bị cô lập về kinh tế; Tránh bị cô lập về ngoại giao; Tránh bị lệ thuộc về chính trị. Có thể nói đây là hệ thông đồng bộ các quan điểm chiến lược của Việt Nam về chính sách quốc phòng bảo vệ Tổ quốc và đối ngoại nhằm tạo lập và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định góp phần huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cấo tổng kết một sô'vấn đề ỉý luận - thực tiễn qua 30 nấm đổi mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.119-120.
[2] . Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.26-29.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc ỉần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.105.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ XI, Sđd, tr.83-84.
Nguyễn Mậu Minh, ĐUV, Bí thư Chi bộ Trường NN-XHNV, Đảng bộ Trường Đại học Duy Tân