star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

Tìm hiểu về các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay


 

Đại hội XIII của Đảng diễn ra từ từ ngày 25/01/2021 đến ngày 01/02/2021, tại Thủ đô Hà Nội đã thông qua Văn kiện Đảng trong đó khẳng định và nhấn mạnh: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.

1. Kinh tế nhà nước (KTNN)

Kinh tế nhà nước bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, trong đó có DNNN. Kinh tế nhà nước và DNNN có điểm chung đều là phần tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, phục vụ lợi ích toàn dân.

Kinh tế nhà nước được hiểu bao gồm các cấu thành sau: 1- Bộ phận doanh nghiệp ở đó Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối; 2- Bộ phận phi doanh nghiệp, ngoài các tài sản thuộc sở hữu nhà nước còn bao gồm cả đất đai, rừng, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia...

Kinh tế nhà nước có phạm vi, vai trò rộng lớn hơn doanh nghiệp nhà nước, nó không chỉ dựa trên hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khu vực doanh nghiệp nhà nước mà còn là tập hợp sức mạnh kinh tế thể hiện trên các ngành, lĩnh vực trọng yếu từ các định chế tài chính, pháp luật, sức mạnh quản lý đến điều hành của hệ thống chính trị. Việc khẳng định vị thế và xây dựng KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước sẽ giữ vị trí chi phối trong các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ chốt của nền kinh tế, cũng như độc quyền trên nhiều lĩnh vực. Các doanh nghiệp nhà nước, lực lượng nòng cốt của thành phần KTNN sẽ cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, với trọng trách của mình, các doanh nghiệp nhà nước sẽ tiên phong trong các lĩnh vực, ngành mũi nhọn, cần vốn lớn, đòi hỏi công nghệ tiên tiến, hiện đại, những lĩnh vực mà tư nhân không thể làm được hoặc không muốn làm, những ngành, lĩnh vực trọng yếu, liên quan đến an ninh - quốc phòng,...

Sở hữu nhà nước và KTNN giữ vị trí trọng yếu, vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nền tảng cơ bản để phát triển mọi ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.

Trong đó các thành phần kinh tế hiện có trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước tập trung những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng về quốc phòng an ninh, những lĩnh vực mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Củng cố phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đến năm 2025 hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá. Hình thành đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp, có trình độ cao.

2. Kinh tế tập thể

Nghị quyết 20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa đã nêu ra một số quan điểm chỉ đạo về kinh tế tập thể. Đảng xác định, kinh tế tập thể với nhiều hình thức tổ chức kinh tế hợp tác đa dạng, phát triển từ thấp đến cao (tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã…) trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các liên hiệp hợp tác xã, không giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế là trọng tâm, bao gồm lợi ích của thành viên, tập thể và Nhà nước, đồng thời coi trọng lợi ích chính trị, văn hoá, xã hội trên địa bàn.

Kinh tế tập thể phát triển dựa trên sở hữu riêng của thành viên và sở hữu chung của tập thể; tổ chức hoạt động theo nguyên tắc đối nhân, không phụ thuộc vào vốn góp; phân phối theo mức độ tham gia dịch vụ, theo hiệu quả lao động và theo vốn góp. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm các thể nhân và pháp nhân, thành viên chính thức và thành viên liên kết, cùng góp vốn, góp tài sản, góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Khuyến khích việc tích luỹ và sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản chung trong tổ chức kinh tế tập thể.

 Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động rộng lớn, có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã. “Phát triển kinh tế tập thể là một trong những phương thức để khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường, là nền tảng quan trọng để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; là cơ sở để “hợp tác” trở thành văn hóa, bản sắc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; là một kênh quan trọng để thực hiện các chính sách phát triển văn hóa, xã hội bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại cộng đồng dân cư”.

3. Kinh tế tư nhân

Ở Việt Nam, kinh tế tư nhân được dùng để chỉ các thành phần kinh tế phát triển dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do cá nhân làm chủ, hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cụ thể hơn, kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Cả 2 thành phần kinh tế trên thuộc cùng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nhưng quy mô sở hữu là khác nhau.

Dù hoạt động dưới hình thức nào, kinh tế tư nhân cũng hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân; phần lớn hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Xét về lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, kinh tế tư nhân bao gồm các hộ gia đình, các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các quá trình, hoạt động sản xuất kinh doanh ở các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, vận tải, nông lâm thủy sản, thương mại, dịch vụ, kinh tế xây dựng...Xét về mô hình tổ chức, kinh tế tư nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp tư nhân được tổ chức dưới các loại hình công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh...

Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động”.

Nghị quyết 68-NQ/TW năm 2025 của Đảng ta nêu rõ: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng.

Đồng thời, tại Mục II Nghị quyết 68-NQ/TW năm 2025 nêu rõ mục tiêu phát triển đến năm 2030 đối với thành phần kinh tế tư nhân là: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết 57-NQ/TW năm 2024 và các chủ trương, đường lối khác của Đảng.

4. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Ở Việt Nam thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thế hệ được xác định từ văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là thành phần kinh tế bao gồm: Các doanh nghiệp, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; Các doanh nghiệp, doanh nghiệp liên doanh; Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Theo Điều 3 Luật Đầu tư năm 2020 quy định, “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam” (Khoản 19) và “Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông” (Khoản 22). Bên cạnh đó, tại Khoản 1 Điều 23 quy định về việc thực hiện hoạt động đầu tư của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, theo đó: “Tổ chức kinh tế phải đáp ứng điều kiện và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế khác; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế khác; đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC nếu tổ chức kinh tế đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh;

b) Có tổ chức kinh tế quy định tại Điểm a Khoản này nắm giữ trên 50% vốn điều lệ;

c) Có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế quy định tại Điểm a Khoản này nắm giữ trên 50% vốn điều lệ”.

Như vậy, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên) có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta. Thành phần kinh tế này không tương đồng với các thành phần kinh tế trong nước cả về mục tiêu và cơ chế vận hành. Tuy nhiên đây được xác định là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong việc huy động vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.

 

Tài liệu tham khảo

Phạm Việt Dũng (2019), Về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, truy cập ngày 14/6/2025 tại https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/815713/ve-vai-tro-chu-dao-cua-kinh-te-nha-nuoc.aspx

Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

Đảng cộng sản Việt Nam (2025), Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.

Quốc Hội (2020), Luật Đầu tư 2020, số 61/2020/QH14.

Tạp chí Cộng sản Online (2022), Kinh tế tư nhân, truy cập ngày 14/6/2025 tại https://hssk.tapchicongsan.org.vn/bai-viet/chuyen-sau/kinh-te-tu-nhan-post1530.html

 

 Ths. Đoàn Thị Cẩm Vân