star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

Dự báo của C. Mác và Ph. Ăngghen về sự giao lưu, hội nhập văn hóa trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản


Tuy không có tác phẩm riêng bàn trực tiếp về vấn đề văn hóa nhưng đan cài trong những luận bàn về chính trị - xã hội, qua những thư từ trao đổi với giới văn nhân, nghệ sĩ, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã thể hiện rõ quan điểm, lập trường về văn hóa vô sản, văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen dành trọn phần III để nói về Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (bên cạnh các phần mục quan trọng khác như: Tư sản và vô sản; Những người vô sản và những người cộng sản; Thái độ của những người cộng sản đối với đảng đối lập).

Văn học là một bộ phận đặc biệt nhạy cảm, tinh tế của văn hóa, phản ánh sinh động thế giới tinh thần, tình cảm của con người; là kênh tuyên truyền hiệu quả và đắc lực. Đồng thời, còn là lăng kính phản chiếu xã hội, có sức mạnh và tác động vô cùng lớn tới nhận thức, thái độ, hành vi của mỗi cá nhân. Nhận thấy được tính ưu việt, vượt trội của văn học cũng như văn hóa, giai cấp cầm quyền muốn tận dụng, khai thác triệt để đội ngũ văn nghệ sĩ, biến họ và tác phẩm của họ trở thành những công cụ phục vụ cho mục đích và ý đồ chính trị. Từ thực tiễn đời sống chính trị, tư tưởng, tác giả của Tuyên ngôn rút ra kết luận: “Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì, nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất? Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”.

Trong Tuyên ngôn, qua khảo sát, đánh giá tình hình thực tiễn của các chế độ xã hội, C. Mác, Ph. Ăngghen nhận thấy văn học có mối quan hệ chặt chẽ với chính trị. Xã hội nào thì văn học ấy, văn học luôn được các giai cấp, tầng lớp thống trị sử dụng như một phương tiện, một con đường để đấu tranh tư tưởng nhằm tranh giành sự ảnh hưởng của giai cấp, tầng lớp mình trong xã hội. Nhận định về giai cấp quý tộc Anh và Pháp trong cuộc Cách mạng Pháp (tháng 7-1830), Tuyên ngôn viết: “Đối với quý tộc thì không thể còn có vấn đề đấu tranh chính trị thật sự được nữa, họ chỉ còn có cách đấu tranh bằng văn học mà thôi”. Lý giải về sự ra đời và đặc điểm của chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản, C. Mác, Ph. Ăngghen cho rằng, “Trong những nước như nước Pháp, ở đó nông dân chiếm quá nửa dân số thì tự nhiên là đã xuất hiện những nhà văn đứng về phía giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, nhưng đã dùng cái thước đo tiểu tư sản và tiểu nông trong việc phê phán chế độ tư sản, và đã xuất phát từ những quan điểm tiểu tư sản mà bênh vực sự nghiệp của công nhân.

Là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, phản ánh hiện thực xã hội thông qua ngôn ngữ, hình tượng nhân vật, văn học rộng ra là văn hóa có sức lan tỏa và ảnh hưởng mạnh mẽ tới công chúng ở mọi giai tầng, lứa tuổi, nghề nghiệp, quốc gia. Ngay từ rất sớm, C. Mác, Ph. Ăngghen đã nhận thấy quy luật tất yếu của các nền văn học đơn lẻ sẽ giao thoa, hội nhập để tạo nên một nền văn học toàn thế giới. Tuyên ngôn viết: “Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và các dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. Những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc.

Một trong những nguyên nhân đầu tiên, quan trọng dẫn tới hội nhập, giao lưu, hợp tác toàn cầu là sự phát triển của nền đại công nghiệp với lực lượng sản xuất hiện đại. Sự lớn mạnh, trưởng thành của giai cấp tư sản với nhu cầu tìm kiếm và mở rộng thị trường đã tạo những chuyển biến sâu sắc đời sống kinh tế, chính trị, xã hội toàn thế giới. “Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng trong tất cả các nước mang tính chất thế giới…

Như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một tiến bộ của nhân loại so với các hình thái xã hội trước đó. Trong thời kỳ hưng thịnh của giai cấp tư sản, họ đã tạo ra lượng của cải vật chất vô cùng lớn (trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước cộng lại), tạo sự kết nối, giao lưu toàn cầu. Những chuyển biến trong đời sống vật chất kéo theo những thay đổi trong đời sống tinh thần - một lĩnh vực vốn nhạy cảm, liên quan đến tâm tư, tình cảm cá nhân và nét riêng biệt, độc đáo của các dân tộc. So với những lĩnh vực vật chất, khoa học kỹ thuật thì đời sống tinh thần có xu hướng ổn định, chậm thay đổi, dễ rơi vào trạng thái bảo thủ, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển.

Tuy nhiên, cơn lốc của quá trình toàn cầu hóa, sự xuất hiện của cơ chế thị trường, sự xâm lấn của chủ nghĩa tư bản với văn hóa tiêu dùng đã “xuyên thủng” những bước tường thành kiên cố nhất, tạo ra quá trình đô thị hóa và trào lưu văn minh trên toàn cầu. “Giai cấp tư sản bắt nông thôn phải phục tùng thành thị. Nó lập ra những đô thị đồ sộ; nó làm cho dân số thành thị tăng lên phi thường so với dân số nông thôn, và do đó, nó kéo một bộ phận lớn dân cư thoát khỏi vòng ngu muội của đời sống thôn dã. Cũng như nó đã bắt nông thôn phải phụ thuộc vào thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phải phụ thuộc vào các nước văn minh, nó đã bắt những dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây”.

Tuyên ngôn tuy mới giới hạn ở lĩnh vực văn học nhưng có thể suy rộng ra các lĩnh vực tinh thần khác cũng chịu những tác động, chi phối của tồn tại xã hội, cơ sở hạ tầng kinh tế - một trong những yếu tố kích thích, tạo điều kiện để văn học, văn hóa lan tỏa và ngày càng phát triển. Sự hội nhập, giao lưu văn hóa các dân tộc có thể diễn ra bằng nhiều con đường khác nhau, khi tự nguyện, chủ động; khi cưỡng bức, áp đặt qua con đường kinh tế, mở rộng thị trường, chiến tranh, xâm lược, hôn nhân

Những luận điểm về văn hóa của Tuyên ngôn được viết ra cách đây gần hai thế kỷ như những dự báo, tiên đoán về mô hình, viễn cảnh của thế giới đương đại. Tuy nhiên với lĩnh vực tinh thần, nhất là văn học, văn hóa lại có những quy luật phát triển đặc thù. Sự áp đặt của văn hóa, văn minh phương Tây với lý thuyết “trung tâm văn hóa”, lấy châu Âu làm trung tâm đã không còn hợp lý khi văn hóa phương Tây bên cạnh những mặt tích cực lại bộc lộ nhiều điểm yếu và hạn chế, không phù hợp với điều kiện địa lý, lịch sử, tập quán vùng, miền của các dân tộc khác, nó không thể trở thành kiểu mẫu chung để ép buộc các dân tộc dã man, bán khai phải dập khuôn, đi theo. Văn hóa có đời sống và quy luật phát triển riêng, đặc thù, hướng đến cái độc đáo, nhân văn. Tuy nhiên một nền văn hóa không thể phát triển, nó sẽ chết nếu chỉ đóng kín trong một giới hạn không thời gian. Muốn tồn tại, văn hóa phải luôn luôn học hỏi, thâu nhận và cải biến những giá trị tốt đẹp của các nền văn hóa khác với tinh thần đề cao, tôn trọng sự đa dạng, khác biệt.

Có thể nói, những luận điểm khoa học của C. Mác, Ph. Ăngghen về văn học, văn hóa tạo tiền đề quan trọng để các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau hơn, cùng nhau chung sống hòa bình. Việc gia tăng những mối quan hệ, củng cố niềm tin, chia sẻ kinh nghiệm, tri thức văn hóa là những điều kiện để duy trì trật tự ổn định, thịnh vượng của thế giới hiện nay.

Trịnh Đình Thanh