Trong tác phẩm “Học tập đạo đức Hồ Chí Minh” , đồng chí Võ Nguyên Giáp có bài viết nêu rõ: “Nghiên cứu cuộc đời và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rất rõ ở Người chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái, truyền thống văn hóa phương Đông, phương Tây và sự phát triển chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác. Sự tổng hợp đó hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, hiện thân cao nhất của chủ nghĩa nhân văn hiện thực của người Việt Nam trong thời đại cách mạng giải phóng dân tộc và xã hội chủ nghĩa”.Và “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở tấm lòng thương yêu con người, thương yêu nhân dân hết sức rộng lớn, sâu sắc. Người đã từng khái quát về triết lý cuộc sống: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ và bị áp bức”.
Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh là hết lòng nâng niu giá trị con người, tự do và nhân phẩm con người, tin cậy vào những gì tốt đẹp của con người sẽ nảy nở và hoàn thiện thông qua giáo dục và tự giáo dục. Ở đời, con người là con người đời thường, không có ai là thần thánh cả. “Nhân vô thập toàn”, ai cũng có cái hay và cái dở, cái tốt và cái xấu. Phải làm sao cho cái hay, cái tốt nảy nở như hoa mùa xuân, cái xấu, cái dở sẽ mất dần đi. Phải thức tỉnh con người, có khát vọng sống, vươn tới cái tốt đẹp. Phải có sự cảm thông, chia sẻ, động viên, giúp đỡ, có lòng bao dung, độ lượng vĩ đại. Nghiêm với mình, rộng lòng khoan thứ với người, đó là thái độ nhân văn cao quý của Hồ Chí Minh.
Năm 1949, Hồ Chí Minh nêu ra định nghĩa: “Chữ người nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Và khi Người viết trong Di Chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người” thì Người đã gửi gắm tất cả tâm tư, tình cảm và bộc lộ tư tưởng của mình đối với Nhân dân, với đồng chí, đồng bào.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực, cách mạng. Có thể nói Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn hành động, hành động nhằm giải phóng con người. Từ thực tiễn xã hội Việt Nam, vận dụng sáng tạo phương pháp hành động biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã luận chứng một cách khoa học mục tiêu phát triển con người chỉ có thể đạt được thông qua thực hiện "ba cuộc giải phóng:" Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Ba cuộc giải phóng đó vừa kết hợp chặt chẽ với nhau, lại vừa nối tiếp nhau trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Sự kết hợp chặt chẽ được thể hiện ở chỗ trong giải phóng dân tộc đã có một phần giải phóng giai cấp và giải phóng con người; sự nối tiếp được thể hiện ở chỗ giải phóng dân tộc sẽ mở đường cho giải phóng giai cấp và giải phóng con người được đẩy mạnh.
Trong hành trình đi tới giải phóng con người và đem lại hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh không quên nhắc nhở một đảng cầm quyền, bộ máy nhà nước, mỗi cán bộ, đảng viên phải chịu trách nhiệm trước dân. Điều đó đồng nghĩa với việc thực hiện những quyền cơ bản, những lợi ích cụ thể và sự phát triển của con người. Người viết: Tục ngữ có câu: “Dân dĩ thực như thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có trời. Lại có câu: “Có thực mới vực được đạo” nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả.
Vì vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống Nhân dân. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, không có tình yêu thương con người chung chung, mà chỉ có tình thương yêu dành cho người bị áp bức, nghèo khổ ở bất cứ nước nào. Người đã phân biệt bạn thù rõ rệt, phân biệt nhân dân Pháp, Mỹ với những bọn thực dân đế quốc là người Pháp, Mỹ ‒ những kẻ chủ mưu xâm lược, nuôi mộng thôn tính các dân tộc nhỏ và đẩy nhân dân nước họ đến chỗ chết chóc. Vì vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng độ lượng khoan dung với những người lầm đường lạc lối đi đánh thuê cho bọn thực dân đế quốc. Ngay như đối với giai cấp tư sản dân tộc, Hồ Chí Minh cũng có thái độ rất rõ ràng, coi họ cũng là một lực lượng cần có trong xây dựng chế độ xã hội mới. Người khẳng định: "Không nên coi giai cấp tư sản dân tộc là đối tượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, bởi họ đã đi cùng với giai cấp công nhân trong cách mạng dân tộc dân chủ. Nên coi họ là đồng minh, cải tạo họ thành người lao động và khi cải tạo nên dùng các phương pháp dân chủ, không phải chuyên chính với họ".
Có thể nói tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng thể hiện các giá trị làm người cao quý, là linh hồn, là ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là lương tâm của thời đại. Tư tưởng ấy có sức sống bền vững và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân Việt Nam và của nhân dân nhiều dân tộc trên thế giới, chính là vì tư tưởng của Người đã kế thừa những giá trị tư tưởng, văn hóa "vĩnh cửu" của nhân loại, thấm đượm một chủ nghĩa nhân văn cao cả, đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng cháy bỏng và sâu xa của dân tộc và nhân loại./.
Th.s Nguyễn Tấn Tài – Giảng viên Bộ môn LLCT